Theo các bác sĩ Bệnh viện K, bệnh ung thư vú được phát hiện ở giai đoạn càng sớm thì tỷ lệ chữa khỏi bệnh càng cao.
Ung thư vú có thể chữa khỏi nếu được phát hiện ở giai đoạn sớm, tỷ lệ sống thêm sau 5 năm sẽ giảm dần khi bệnh được phát hiện và điều trị muộn hơn. Ước tính mỗi năm trên toàn cầu có khoảng 14,1 triệu ca mới mắc ung thư, trong đó riêng bệnh ung thư vú chiếm tới 1,2 triệu ca.
Các bước khám vú tại nhà.
Ở nước ta, mỗi năm trên toàn quốc có khoảng 182 ngàn ca mới mắc và hơn 120.000 trường hợp tử vong do ung thư, thì riêng ung thư vú chiếm khoảng 15.000 ca mới mắc và trên 6.000 trường hợp tử vong. Bệnh ung thư vú có xu hướng trẻ hóa với tỷ lệ bệnh nhân thuộc các độ tuổi từ 20 đến 30 đang tăng dần.
Tỷ lệ tử vong của bệnh nhân ung thư vú phụ thuộc nhiều vào thời điểm phát hiện. Người bệnh được chẩn đoán ở giai đoạn càng sớm thì khả năng sống sót càng cao và ngược lại, tỷ lệ sống sót giảm thấp khi phát hiện bệnh vào giai đoạn muộn. Vì thế, việc xác định khi nào cần sàng lọc ung thư vú và ai cần khám vú là việc làm cần thiết để giảm thiểu số lượng người tử vong do mắc bệnh ung thư vú trong cộng đồng.
Trước đây, tự khám vú tại nhà là một phần quan trọng trong chiến lược sàng lọc ung thư vú. Những người phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú thường được tư vấn tự quan sát và kiểm tra vú của mình vào thời điểm 5 đến 7 ngày sau sạch kinh. Phương pháp tự khám vú bao gồm các bước tiến hành sau:
Bác sĩ Bệnh viện K hướng dẫn để chị em tự khám vú tại nhà:
Quan sát:
- Xuôi tay, quan sát xem có các thay đổi ở vú: u cục, dày lên, lõm da hoặc thay đổi màu sắc da.
- Đưa tay ra phía sau gáy sau đó quan sát lại.
- Chống tay lên hông làm cử động cơ ngực lên xuống bằng động tác nâng vai lên hoặc hạ vai xuống. Động tác này làm rõ hơn các thay đổi ở vú nếu có.
Sờ nắn:
- Nắn nhẹ đầu vú xem có dịch chảy ra hay không?
- Đưa tay phải ra sau gáy. Dùng tay trái sờ nắn vú phải, 4 ngón tay đặt sát nhau thành một mặt phẳng, ép đều đặn lên các vùng khác nhau của tuyến vú, thành ngực theo hướng vòng xoáy ốc từ đầu vú ra phía ngoài.
- Kiểm tra từng vùng của vú và hố nách.
Độ tuổi nên bắt đầu sàng lọc ung thư vú
- Phụ nữ từ 30 tuổi trở lên nên bắt đầu định kỳ đến khám tại cơ sở y tế chuyên khoa 1 năm một lần.
- Phụ nữ từ 40 tuổi trở lên nên khám sàng lọc ung thư vú hằng năm bằng chụp xquang tuyến vú.
- Với phụ nữ có nguy cơ cao bị ung thư vú nên được tầm soát thêm bằng chụp MRI tuyến vú hàng năm bắt đầu từ tuổi 30. Trong đó gồm những người có đột biến BRCA, bố, mẹ, anh chị em ruột hoặc con của người mang đột biến BRCA, nguy cơ mắc bệnh ung thư vú 20% đến 25%, có tiền sử xạ trị vào vùng ngực từ 10 đến 30 tuổi, hội chứng Li‐Fraumeni, hội chứng Cowden- Bannayan Riley-Ruvalcaba.
Xác định nguy cơ trung bình với bệnh ung thư vú cần được tham vấn bởi ý kiến của các chuyên gia dựa trên tiền sử gia đình và tiền sử bệnh tật bản thân.
Một cách tổng quát, phụ nữ có nguy cơ trung bình mắc bệnh ung thư vú bao gồm các đặc điểm sau: có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú ở thế hệ thứ nhất như mẹ và chị em gái ruột, mang đột biến gen đã được xác định và tiền sử bản thân mắc bệnh ung thư vú.