Số ca mắc COVID-19 trong nước từ 27/04/2021
Xem thêm số liệu dịch COVID-19 >STT | Tỉnh thành | Ca nhiễm mới hôm qua |
Tổng Ca nhiễm |
Ca tử vong |
Ca tử vong công bố hôm qua |
---|---|---|---|---|---|
TỔNG | +13.094 | 1.176.148 | 24.509 | 137 | |
1 | TP.HCM | +1.809 | 464.180 | 17.625 | 60 |
2 | Hà Nội | +253 | 9.097 | 64 | 0 |
3 | Cần Thơ | +897 | 14.002 | 200 | 3 |
4 | Bình Dương | +707 | 279.540 | 2.656 | 0 |
5 | Tây Ninh | +655 | 22.577 | 238 | 9 |
6 | Bà Rịa - Vũng Tàu | +653 | 12.823 | 62 | 1 |
7 | Đồng Tháp | +601 | 19.564 | 300 | 3 |
8 | Bạc Liêu | +566 | 11.744 | 105 | 2 |
9 | Đồng Nai | +556 | 85.011 | 703 | 3 |
10 | Vĩnh Long | +536 | 9.122 | 91 | 4 |
11 | Bến Tre | +501 | 6.231 | 80 | 1 |
12 | Bình Thuận | +496 | 14.657 | 110 | 8 |
13 | Sóc Trăng | +493 | 13.084 | 93 | 4 |
14 | Kiên Giang | +418 | 18.387 | 198 | 7 |
15 | An Giang | +387 | 21.590 | 332 | 13 |
16 | Cà Mau | +374 | 7.416 | 35 | 1 |
17 | Trà Vinh | +309 | 6.970 | 31 | 1 |
18 | Bình Phước | +271 | 5.999 | 15 | 0 |
19 | Hậu Giang | +238 | 4.092 | 10 | 0 |
20 | Khánh Hòa | +216 | 12.225 | 106 | 0 |
21 | Đắk Lắk | +181 | 7.456 | 32 | 2 |
22 | Bắc Ninh | +153 | 4.210 | 14 | 0 |
23 | Hà Giang | +143 | 3.796 | 3 | 0 |
24 | Bình Định | +132 | 3.475 | 19 | 0 |
25 | Tiền Giang | +123 | 23.987 | 525 | 13 |
26 | Nghệ An | +117 | 4.088 | 25 | 1 |
27 | Thừa Thiên Huế | +113 | 2.841 | 11 | 0 |
28 | Lâm Đồng | +112 | 1.965 | 7 | 0 |
29 | Quảng Nam | +95 | 2.633 | 5 | 0 |
30 | Đà Nẵng | +92 | 5.750 | 74 | 0 |
31 | Đắk Nông | +92 | 2.074 | 8 | 0 |
32 | Quảng Ngãi | +80 | 2.571 | 11 | 0 |
33 | Long An | +75 | 37.756 | 589 | 1 |
34 | Vĩnh Phúc | +62 | 966 | 3 | 0 |
35 | Quảng Trị | +57 | 895 | 2 | 0 |
36 | Thanh Hóa | +55 | 2.138 | 10 | 0 |
37 | Hưng Yên | +47 | 665 | 2 | 0 |
38 | Lạng Sơn | +44 | 397 | 1 | 0 |
39 | Nam Định | +38 | 1.318 | 1 | 0 |
40 | Phú Thọ | +38 | 1.727 | 0 | 0 |
41 | Ninh Thuận | +31 | 3.644 | 44 | 0 |
42 | Phú Yên | +30 | 3.554 | 34 | 0 |
43 | Quảng Bình | +28 | 2.450 | 6 | 0 |
44 | Tuyên Quang | +28 | 409 | 0 | 0 |
45 | Thái Bình | +25 | 1.167 | 0 | 0 |
46 | Quảng Ninh | +25 | 624 | 0 | 0 |
47 | Thái Nguyên | +22 | 148 | 0 | 0 |
48 | Gia Lai | +21 | 2.969 | 8 | 0 |
49 | Hà Tĩnh | +19 | 944 | 5 | 0 |
50 | Ninh Bình | +18 | 234 | 0 | 0 |
51 | Bắc Giang | +16 | 6.919 | 15 | 0 |
52 | Hà Nam | +10 | 1.423 | 0 | 0 |
53 | Hải Dương | +8 | 668 | 1 | 0 |
54 | Cao Bằng | +7 | 110 | 0 | 0 |
55 | Kon Tum | +6 | 380 | 0 | 0 |
56 | Hòa Bình | +4 | 229 | 0 | 0 |
57 | Điện Biên | +4 | 437 | 0 | 0 |
58 | Hải Phòng | +4 | 199 | 0 | 0 |
59 | Lào Cai | +2 | 178 | 0 | 0 |
60 | Yên Bái | +1 | 34 | 0 | 0 |
61 | Bắc Kạn | 0 | 12 | 0 | 0 |
62 | Sơn La | 0 | 361 | 0 | 0 |
63 | Lai Châu | 0 | 36 | 0 | 0 |
Tình hình tiêm chủng vaccine ở Việt Nam
Xem thêm số liệu vaccine COVID-19 >Số mũi đã tiêm toàn quốc
116.430.866
Số mũi tiêm hôm qua
1.736.298
Sáng 25/11, Bộ Y tế tổ chức Hội nghị trực tuyến sơ kết công tác điều trị COVID-19.
Thay đổi tiêu chí đánh giá dịch bệnh tại địa phương
Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Trường Sơn cho biết, khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 128, Bộ Y tế ban hành quyết định 4800, các địa phương trở về tình trạng thích ứng an toàn với dịch. Trong giai đoạn đầu, tỷ lệ mắc ở các địa phương có giảm hơn so với làn sóng thứ 4. Tỷ lệ tử vong cũng đã giảm, con số tử vong có lúc giảm dưới 3 con số, có lúc khoảng 57-58 ca/ngày trên toàn quốc.
Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Trường Sơn. (Ảnh: TP).
"Nhờ việc thử nghiệm các thuốc chống virus đường uống tại nhà, nhờ vắc-xin, chúng ta đã giảm được ca trở nặng và giảm tử vong. Đến hết tháng này, cơ bản chúng ta đạt tiêu chí về vắc-xin cho 70% người trên 18 tuổi, kể cả đối tượng trên 65 tuổi", Thứ trưởng nhấn mạnh.
Vì thế, theo Thứ trưởng, hiện nay xu hướng là không coi trọng con số mắc trên 100.000 dân/tuần, mà khuyến khích người dân tự phát hiện nếu mắc thì báo cơ quan y tế để được quản lý, khi có triệu chứng thì vào viện. Thay vì đó, các địa phương sẽ tập trung đánh giá tỷ lệ bệnh nhân nặng, nhập viện, tử vong nhiều hơn - thay đổi tiêu chí đánh giá dịch bệnh tại địa phương.
Thứ trưởng cũng đề nghị các địa phương khi đánh giá cấp độ dịch theo cấp tỉnh, huyện, xã… thì càng chia nhỏ đánh giá theo 4 cấp độ càng nhỏ càng tốt, một khu phố, một cụm dân cư, có biện pháp ngăn chặn kiểm soát nhỏ, gọn nhưng hiệu quả. Đảm bảo y tế đến được với người dân khi nhiễm tại nhà, tại cơ sở. Để làm được điều này cần nhiều nỗ lực trong cung ứng thuốc, đặc biệt là gói C.
Hiện nay có 3 trụ cột cần tập trung là cách ly, xét nghiệm và thu dung điều trị (tại tuyến cơ sở, tầng 2, tầng 3). Quan trọng nhất là sử dụng thuốc kháng virus đường uống để tăng cường mức kiểm soát dịch tại cộng đồng, hạn chế giảm tình trạng bệnh nặng lên tầng trên.
Đã có hơn 1,1 triệu ca mắc, với hơn 24.000 ca tử vong
Theo PGS.TS Lương Ngọc Khuê, Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh, Bộ Y tế, đến nay Việt Nam đã có hơn 1,1 triệu ca mắc, với hơn 24.000 ca tử vong. Hiện còn hơn 78.000 bệnh nhân đang điều trị, trong số này có khoảng 4.000 ca nặng phải thở oxy, thở máy, tỷ lệ còn khá cao. Tỷ lệ tử vong trên số ca mắc là 2,1% tương đương so với thế giới. Tử vong chủ yếu tập trung ở đợt 4, trong khi 3 đợt đầu chỉ có 35 ca tử vong trong tổng số gần 3.500 ca mắc (chỉ khoảng 1%).
Theo thống kê, tỷ lệ tử vong ở trẻ dưới 18 tuổi chiếm 0,3%, người trên 65 tuổi là 47,5%. Trong đó, tử vong chủ yếu tại TPHCM (gần 73%), Bình Dương (gần 11%), Đồng Nai (khoảng 3%), Long An (2,4%), Tiền Giang (2%)…
"Tình hình thế giới còn diễn biến phức tạp, có thể xuất hiện làn sóng mới với biến chủng mới. Các nhà chuyên môn, nhà khoa học nhận định Việt Nam phải hết sức cảnh giác, một đợt dịch thứ 5 luôn rình rập, vì thế chúng ta không được lơ là, phải sẵn sàng ứng phó đợt dịch thứ 5", TS Khuê nói.
Bộ Y tế nhận định số ca mắc cộng đồng đang có xu hướng gia tăng ở nhiều địa phương trên cả nước. Lý do là mầm bệnh đã tồn tại trong cộng đồng, nhiều ca bệnh không có triệu chứng, không rõ nguồn lây và có liên quan đến người trở về từ vùng dịch. Các ổ dịch tập trung tại các địa bàn tập trung dân cư, lây nhiễm thứ phát ngoài cộng đồng, nhất là tại các địa phương có mật độ dân cư cao, giao thương, đi lại lớn.
Vì thế, trong thời gian tới, có thể sẽ tiếp tục ghi nhận nhiều chuỗi lây nhiễm và tiềm ẩn nguy cơ lây lan dịch bệnh trong cộng đồng, nhất là trong điều kiện thời tiết chuyển biến thuận lợi cho sự phát triển, lây lan của virus.