Thông tin chung về bệnh giang mai
- Bệnh giang mai là một bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn lây truyền qua đường tình dục.
- Bao cao su không phải lúc nào cũng ngăn ngừa được các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
- Tên khoa học của vi khuẩn gây ra giang mai là Treponema pallidum.
- Bệnh giang mai thời kì đầu gây ra loét miệng hoặc bộ phận sinh dục. Đây là dấu hiệu đặc trưng của giai đoạn đầu tiên.
- Các giai đoạn sau của bệnh giang mai có thể gây rụng tóc, đau đầu, đau họng và phát ban da. Cuối cùng, bệnh giang mai có thể dẫn đến tổn thương tim và não.
- Các xét nghiệm máu sàng lọc chuẩn cho bệnh giang mai được gọi là VDRL và RPR. Những bài test này phát hiện các phản ứng với tình trạng nhiễm trùng.
- Bất kỳ xét nghiệm VDRL hoặc RPR dương tính nào đều phải được xác nhận bằng xét nghiệm đặc hiệu đối với vi khuẩn gây bệnh giang mai, chẳng hạn như xét nghiệm microhemagglutination đối với T. pallidum (MHA-TP) và xét nghiệm hấp thụ kháng thể treponemal huỳnh quang (FTA-ABS).
- Bệnh giang mai được điều trị bằng kháng sinh.
- Phụ nữ bị nhiễm bệnh trong thai kỳ có thể truyền bệnh cho thai nhi qua nhau thai.
Phụ nữ bị nhiễm bệnh trong thai kỳ có thể truyền bệnh cho thai nhi qua nhau thai.
Nguyên nhân gây bệnh giang mai ở nữ là gì?
Bệnh giang mai là một bênh lây truyền qua đường tình dục đã có từ nhiều thế kỷ. Nguyên nhân của bệnh giang mai được gây ra bởi một vi khuẩn siêu nhỏ gọi là xoắn khuẩn.
Tên khoa học của vi khuẩn này là Treponema pallidum. Đây là một vi khuẩn hình con sâu, xoắn ốc, lắc lư mạnh mẽ khi nhìn dưới kính hiển vi.
Nó lây nhiễm cho người bệnh bằng cách chui vào những nơi ẩm ướt như niêm mạc miệng hoặc bộ phận sinh dục.
Triệu chứng theo giai đoạn của bệnh giang mai ở phụ nữ
Có ba giai đoạn của bệnh giang mai, cùng với giai đoạn không hoạt động (tiềm ẩn).
- Giang mai thời kì đầu tiên
- Giang mai thời kì thứ hai
- Giang mai thời kì thứ ba hoặc thời kì tiềm ẩn
1. Giang mai thời kì đầu tiên
Hình thành một vết loét là giai đoạn đầu tiên của bệnh giang mai ở nữ. Vết loét có thể phát triển bất cứ lúc nào từ 10 đến 90 ngày sau khi nhiễm bệnh, với thời gian trung bình là 21 ngày sau khi nhiễm trùng cho đến khi các triệu chứng đầu tiên phát triển.
- Bệnh giang mai rất dễ lây lan khi có vết loét. Nhiễm trùng có thể được truyền khi tiếp xúc với vết loét.
- Nếu vết loét ở bên ngoài âm đạo hoặc trên bìu của nam giới, bao cao su có thể không ngăn ngừa được sự lây nhiễm do tiếp xúc.
- Tương tự, nếu vết loét ở miệng, chỉ cần hôn người bị nhiễm bệnh là đã có thể lây nhiễm.
Loét có thể tự khỏi mà không cần điều trị sau ba đến sáu tuần. Nhưng bệnh có thể tái phát nhiều tháng sau đó, gọi là bệnh giang mai thứ phát nếu giai đoạn đầu không được điều trị.
2. Giang mai thời kì thứ hai
Ở hầu hết phụ nữ, tình trạng nhiễm trùng giai đoạn đầu sẽ tự khỏi, thậm chí không cần điều trị. Bệnh giang mai thứ phát là giai đoạn toàn thân của bệnh, có nghĩa là nó có thể liên quan đến các hệ cơ quan khác nhau của cơ thể.
- Trong giai đoạn này, bệnh nhân ban đầu có thể gặp nhiều triệu chứng khác nhau, nhưng phổ biến nhất là bị phát ban da, thường xuất hiện ở lòng bàn tay hoặc dưới bàn chân mà không gây ngứa.
- Đôi khi phát ban da của bệnh giang mai thứ phát rất mờ nhạt và khó nhận biết; nó thậm chí có thể không được chú ý trong nhiều trường hợp.
- Giai đoạn thứ phát này cũng có thể gây ra rụng tóc, đau họng, xuất hiện các mảng trắng ở mũi, miệng và âm đạo, cộng với sốt và đau đầu.
- Có thể tạo ra các tổn thương trên bộ phận sinh dục trông giống như mụn cóc sinh dục, nhưng được gây ra bởi xoắn khuẩn và không phải là mụn cóc thật.
- Những tổn thương này, cũng như phát ban trên da, rất dễ lây lan. Phát ban có thể xảy ra ở lòng bàn tay. Kết quả là, nhiễm trùng có thể được truyền qua tiếp xúc thông thường.
Bệnh giang mai ở nữ được chia làm 3 giai đoạn.
3. Giang mai thời kì thứ ba
Sau khi mắc bệnh giang mai thứ phát, một số bệnh nhân sẽ tiếp tục bị nhiễm trùng trong cơ thể mà không có triệu chứng. Đây là giai đoạn được gọi là giai đoạn tiềm ẩn hoặc thứ ba của nhiễm trùng. Nó có thể phát triển ở khoảng 15% những người chưa được điều trị bệnh giang mai, và có thể xuất hiện lại từ 10 đến 20 năm sau khi mắc phải lần nhiễm trùng đầu tiên. Thông thường, bệnh giang mai ở giai đoạn thứ ba không còn gây truyền nhiễm. Bệnh giang mai cấp ba cũng là một giai đoạn toàn thân của bệnh và có thể gây ra một loạt các vấn đề trên khắp cơ thể bao gồm:
- Phình to bất thường của động mạch chủ, dẫn đến các vấn đề về tim;
- Xuất hiện các nốt lớn phát triển trong các cơ quan khác nhau của cơ thể;
- Nhiễm trùng não, gây đột quỵ, rối loạn tâm thần, viêm màng não, các vấn đề về cảm giác, hoặc suy giảm sức khoẻ;
- Ảnh hưởng đến mắt dẫn đến suy giảm thị lực;
- Ảnh hưởng đến tai dẫn đến điếc
Những vấn đề được gây ra bởi bệnh giang mai giai đoạn ba này vô cùng nghiêm trọng và thậm chí có thể gây tử vong.
Bệnh giang mai ở phụ nữ được chẩn đoán như thế nào?
Bệnh giang mai có thể được chẩn đoán bằng cách cạo gốc vết loét và nhìn dưới một loại kính hiển vi đặc biệt (kính hiển vi trường tối) để tìm xoắn khuẩn. Tuy nhiên, vì các kính hiển vi này không có sẵn rộng rãi, nên quá trình chẩn đoán thường được thực hiện và điều trị theo chỉ định dựa trên tình trạng của vết loét. Chẩn đoán bệnh giang mai rất phức tạp bởi thực tế là sinh vật gây bệnh không thể phát triển trong phòng thí nghiệm. Do đó, nuôi cấy các khu vực bị ảnh hưởng có thể được xem xét để chẩn đoán.
- Xét nghiệm máu đặc biệt cũng có thể được sử dụng để chẩn đoán bệnh giang mai.
- Các xét nghiệm máu sàng lọc chuẩn cho bệnh giang mai được gọi là VDRL và RPR: Những xét nghiệm này phát hiện phản ứng của cơ thể đối với nhiễm trùng, nhưng không phải là Treponema pallidum (vi khuẩn thực sự gây ra nhiễm trùng). Vậy nên các xét nghiệm này được gọi là các xét nghiệm không treponemal. Mặc dù các xét nghiệm không nhiễm trùng treponemal rất hiệu quả trong việc phát hiện bằng chứng nhiễm trùng, nhưng chúng cũng có thể cho kết quả dương tính khi không có nhiễm trùng thực sự (gọi là kết quả dương tính giả đối với bệnh giang mai).
- Do đó, bất kỳ xét nghiệm không nhiễm treponemal dương tính nào cũng cần phải được xác nhận lại bằng xét nghiệm treponemal đặc hiệu cho sinh vật gây bệnh giang mai, như xét nghiệm microhemagglutination đối với T. pallidum (MHA-TP) và xét nghiệm kháng thể kháng treponemal huỳnh quang (FTA). Các xét nghiệm treponemal này trực tiếp phát hiện phản ứng của cơ thể với Treponema pallidum.
Chẩn đoán bệnh giang mai ở nữ vô cùng phức tạp.
Điều trị bệnh giang mai ở phụ nữ
Tuỳ thuộc vào giai đoạn bệnh và các biểu hiện lâm sàng mà có những cách chữa bệnh giang mai khác nhau.
1. Tiêm penicillin
- Tiêm penicillin tác dụng kéo dài đã rất hiệu quả trong điều trị cả giang mai giai đoạn sớm và giai đoạn muộn.
- Việc điều trị bệnh lý thần kinh đòi hỏi phải tiêm tĩnh mạch penicillin.
2. Các phương pháp điều trị thay thế
Các phương pháp điều trị thay thế bao gồm:
- Doxycycline uống (Vibramycin, Oracea, Adoxa, Atridox và các loại khác)
- Tetracycline (Achromycin).
Phụ nữ bị nhiễm bệnh trong thai kỳ có thể truyền bệnh cho thai nhi qua nhau thai. Penicillin phải được sử dụng ở những bệnh nhân mang thai mắc bệnh giang mai vì các kháng sinh khác không có hiệu quả qua nhau thai để điều trị cho thai nhi bị nhiễm bệnh. Nếu không được điều trị, bệnh giang mai có thể dẫn đến mù lòa hoặc thậm chí tử vong ở trẻ sơ sinh.
Nguồn tham khảo: Syphilis in Women - trên trang tin y tế E Medicine Health. Xuất bản ngày 22/06/2020. |