Nàng công chúa câm được nhắc đến chính là Vệ Quốc Trưởng Công chúa. Theo cuốn Việt sử giai thoại, tên thật của nàng là Lê Ngọc Đường (sinh năm 1439, không rõ năm mất), là con gái cả của vua Lê Thái Tông và là chị của vua Lê Nhân Tông. Hai vị vua này đều được đánh giá là anh minh tài giỏi, có nhiều chiến công lẫy lừng trong sử Việt.
Về phía Vệ Quốc Trưởng Công chúa, tuy sinh ra trong gia đình đế vương quyền quý, nhưng nàng không may lại bị mắc bệnh câm bẩm sinh, không thể nói được. Dù vậy, nàng lại được em trai là vua Lê Nhân Tông xuống chiếu đem gả đi khi chỉ mới 10 tuổi.
Ảnh minh họa
Nàng công chúa lấy chồng năm 10 tuổi để giúp em trai củng cố quyền lực
Phò mã của Công chúa Ngọc Đường là Lê Quát, con trai của đại thần Lê Thụ - một bậc khai quốc công thần triều Hậu Lê. Trong danh sách “lam Sơn tam thập hổ tướng” (30 vị tướng giỏi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn), Lê Thụ được xếp thứ 13 và sau đó từng bước trở thành thái tể, giữ chức Bình Chương quân quốc trọng sự, là chức Tể tướng nhà Lê.
Tuy là bậc khai quốc công thần, nhưng Lê Thụ cũng có những hạn chế, lỗi lầm. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục có ghi, ngay trong khi nước đang có quốc tang (tang vua Thái Tổ Lê Lợi), Lê Thụ đã cưới vợ lẽ và bắt binh lính về làm việc riêng cho mình như xây nhà đồ sộ và sai vặt, đồng thời ông còn giao lưu với người nước ngoài để buôn bán.
Sau đó, ông bị quan giữ việc can ngăn là Phan Thiên Tước luận tội, vua Lê Thái Tông liền sai người đi điều tra rồi giao Lê Thụ cho Pháp ti xét hỏi. Thế nhưng, nhiều đại thần trong triều đã bào chữa, xin giúp nên vua đã tha tội cho Lê Thụ, chỉ bắt ông phải bỏ vợ lẽ và truy nộp 15 lạng vàng, 100 lạng bạc và số tiền do buôn bán riêng mà có.
Tháng 12 năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông qua đời, hoàng tử Lê Bang Cơ mới hơn 1 tuổi được đưa lên kế vị (tức Lê Nhân Tông).
4 năm sau khi vua Lê Thái Tông qua đời (tức năm Mậu Thìn 1448), Thái hậu Nguyễn Thị Anh đã nhân danh vua Lê Nhân Tông ban hôn cho công chúa Ngọc Đường với Lê Quát để kết tình thâm giao, có thêm chỗ dựa đảm bảo sự vững chắc cho ngai vàng của con trai mình.
Ảnh minh họa
Về chuyện này, sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết như sau: “Tháng 11, đem chị cả của vua là Vệ Quốc Trưởng Công chúa gả xuống cho Lê Quát là con trai của quan Thái úy Lê Thụ. Bấy giờ, Công chúa mới lên mười, mắc chứng câm không nói được. Vua xuống chiếu giao cho quan Tư khấu là Trịnh [Lê] Khắc Phục làm chủ hôn”.
Trong sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng có đoạn chép tương tự: “Tháng 11, mùa đông, gả Vệ quốc trưởng công chúa cho Lê Quát. Quát là con Thái úy Lê Thụ. Công chúa mới lên mười. Nhà vua hạ chiếu cho Tư khấu Lê Khắc Phục đứng chủ trương về việc hôn nhân”.
Đám cưới tốn nhiều giấy mực, gây chấn động cả nước
Hôn lễ của Công chúa Ngọc Đường là sự kiện khiến triều thần nhà Hậu Lê và dân chúng chấn động. Theo sách sử, hiếm có một lễ cưới của công chúa nào lại có ảnh hưởng lớn đến xã hội đương thời như lễ cưới này.
Cụ thể, theo quy định trong Hội điển về hôn lễ của công chúa, phải có 6 lễ đi cưới do Khâm Thiên giám chọn, tổ chức trong 6 ngày khác nhau, mỗi lễ lại có vật phẩm riêng biệt như vàng bạc, trầu cau, rượu, trâu, bò, lợn, dê, chim nhạn (hoặc ngỗng), nữ trang, hộp kim chỉ, các loại vải (gấm, lụa, lĩnh, sa)…
Con trai được lấy công chúa, Tể tướng Lê Thụ coi đó là vinh dự lớn, là một ân huệ nên đã sai người đi mua sắm rất nhiều để chuẩn bị cho đám cưới. Các quan lại ở Thăng Long đua nhau mua lễ vật đến mừng, khiến nhiều mặt hàng, nhất là gấm lụa hết sạch hàng. Không những vậy, khắp các địa phương trong nước cũng gửi của hối lộ về kinh đô nườm nượp.
Ảnh minh họa
Về chuyện này, Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết như sau: “Lê Thụ lo liệu việc sắm sính lễ. Những kẻ bon chen xu phụ đua nhau đem lễ đến dâng. Lê Thụ lại nhờ các trấn, các lộ lo kiếm trâu dê để dùng vào việc cưới. Các trấn, các lộ nhân đó bắt dân đóng góp cung ứng để mua lòng Lê Thụ.
Ngự sử Đồng Hanh Phát có đàn hặc về việc này. Lê Thụ bỏ mũ, tạ tội với nhà vua; nhưng những đồ người ta đưa biếu, Thụ vẫn đều nhận cả, không từ chối. Hanh Phát không đề cập đến việc đó nữa, rồi lại đem đồ lễ đến nhà Lê Thụ và nói xin lỗi. Những người thức giả đều chê cười Hanh Phát”.
Về chuyện vì một lễ cưới mà khiến dân chúng cả nước rối động, sách Việt sử giai thoại cũng có lời bàn rằng: “Con gái thứ dân mà mắc bệnh câm thì ôm phận cô đơn suốt đời là điều không sao tránh khỏi nhưng là công chúa, số phận của Vệ Quốc khác hẳn:
Chẳng những làm dâu quan Thái úy mà còn làm dâu ngay khi mới lên 10! Thái úy Lê Thụ chắc chẳng mong con mình lấy vợ câm, con trai của Lê Thụ là Lê Quát chắc càng không mong hơn nữa. Nhưng, cơ may vơ vét của cải khắp thiên hạ bỗng dưng mà đến, kẻ tham lam như Lê Thụ chẳng thể bỏ qua.
Kẻ xu nịnh cũng đang không mà có cơ may để hối lộ Lê Thụ, Đài quan là Đồng Hanh Phát hặc tội Lê Thụ, rồi sau đó cũng chính ông tự mình đem lễ vật đến mà lạy tạ Lê Thụ, ông được yên thân nhất thời, song, việc làm ấy mới mỉa mai làm sao. Khi sống, gió chiều nào người ta có thể che chiều ấy, nhưng khi chết, bão táp của miệng thế muôn đời, con cháu họ biết lấy gì để che?”.
Sau đám cưới của con trai và công chúa Ngọc Đường, uy tín của Lê Thụ giảm sút. Không lâu sau, ông bị bắt giam vào ngục với tội “không biết dạy con”. Tháng 6 năm Bính Tý (1456), ông được tha tội, cho phục chức Thái úy.
Tuy có những sai phạm, nhưng chung quy Lê Thụ vẫn là một bậc trung thần. Tháng 10 năm Kỷ Mão 1459, vua Lê Nhân Tông bị anh trai là Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân giết để cướp ngôi. Bất bình trước việc làm đó, Lê Thụ cùng một số đại thần mưu lật đổ nghịch thần nhưng không thành và đều bị giết.
Còn về số phận của Vệ Quốc Trưởng Công chúa Lê Ngọc Đường và Phò mã Lê Quát ra sao thì không rõ.