Bước đầu cơ quan chuyên môn xác định, từ ngày 25 đến 28/6, Moong Thị B. và Moong Thị S. (cùng sinh năm 2006) về quê ở Kỳ Sơn (Nghệ An) thi tốt nghiệp THPT và ở cùng phòng với ca bệnh tử vong ở huyện Kỳ Sơn. Đến ngày 1/7, cả 2 bắt xe từ huyện Kỳ Sơn (Nghệ An) ra huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang) làm việc tại 1 quán karaoke ở thôn Trung Tâm, xã Hợp Thịnh.
Đến ngày 5/7, khi biết thông tin bạn cùng phòng tử vong do bị bệnh bạch hầu, đồng thời có biểu hiện đau họng, cả 2 trường hợp B. và S. đã chủ động ra hiệu thuốc mua kháng sinh uống. Qua lấy mẫu xét nghiệm, chiều 7/7, cơ quan chuyên môn xác định B. đã bị dương tính với bệnh bạch hầu. Hiện S. và các trường hợp tiếp xúc gần với ca bệnh, được cơ quan chuyên môn thu dung và đưa vào khu vực cách ly.
Bệnh bạch hầu là gì?
Theo bác sĩ chuyên khoa Nội tổng quát Nguyễn Thị Hải Đan, bệnh bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra. Bệnh có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng như viêm phổi, suy tim, liệt thần kinh và tử vong.
Tại Việt Nam, mặc dù bệnh bạch hầu đã được kiểm soát từ khi có vắc xin phòng bệnh, nhưng vẫn chưa được loại trừ hoàn toàn. Từ năm 2013, các đợt bùng phát dịch lẻ tẻ đã xảy ra, chủ yếu ở các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và gần đây là các tỉnh phía Bắc như Hà Giang, Điện Biên, Thái Nguyên.
Các triệu chứng của bệnh bạch hầu bao gồm:
- Đau họng, sốt, ho khan
- Xuất hiện mảng giả mạc màu xám hoặc trắng ở hầu họng, thanh quản hoặc mũi, có thể làm nghẹt đường thở
- Cổ bị sưng do các hạch bạch huyết phình to
- Khó thở, khò khè, khàn tiếng
- Nhiễm trùng da, xuất hiện vết loét hoặc vảy
Đâu là nguyên nhân gây bệnh?
Nguyên nhân gây bệnh bạch hầu là do tiếp xúc gần với dịch tiết đường hô hấp (trực tiếp hoặc qua giọt bắn) hoặc từ vết loét da. Con người là vật chủ duy nhất của vi khuẩn bạch hầu, (rất hiếm trường hợp bệnh ở động vật). Nhiễm trùng có thể xảy ra quanh năm với đỉnh điểm vào những tháng lạnh.
Bạch hầu có thể gây tổn thương tim (viêm cơ tim), hệ thần kinh và thận. Triệu chứng thường xuất hiện từ hai đến năm ngày sau khi nhiễm trùng. Ngoài các triệu chứng đường hô hấp, các biến chứng khác có thể gồm co giật, liệt thần kinh sống mũi, liệt cơ mặt, liệt cơ mắt, liệt cơ miệng và liệt cơ nuốt.
Cách trị bệnh
Cách điều trị bệnh bạch hầu là sử dụng kháng độc tố bạch hầu và kháng sinh macrolide. Kháng độc tố bạch hầu là một loại thuốc tiêm có chứa kháng thể để ngăn chặn độc tố bạch hầu gây tổn thương các mô và cơ quan. Kháng sinh macrolide như erythromycin hoặc azithromycin được dùng để giết vi khuẩn và ngăn chặn sự lây lan của bệnh.
Vaccine bạch hầu
Cách phòng ngừa tốt nhất bệnh bạch hầu là tiêm chủng vắc xin. Tại Việt Nam, vắc-xin phòng bạch hầu được khuyến cáo tiêm ngừa cho tất cả trẻ nhỏ, 3 liều lúc trẻ được 2, 3, 4 tháng tuổi và nhắc lại lần 1 vào lúc 18 tháng tuổi. Trẻ từ 4-6 tuổi có thể nhắc lại vắc-xin 4 trong 1 phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt. Đối với trẻ lớn, người lớn, phụ nữ trước khi mang thai hoặc đang mang thai có thể nhắc lại vắc-xin phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván. Sau đó có thể nhắc mỗi 10 năm/ lần để duy trì kháng thể bảo vệ cơ thể chống lại vi khuẩn bạch hầu lâu dài.
Vắc-xin phòng ngừa bạch hầu có thể gây ra một số tác dụng phụ như sốt, đau, sưng, đỏ ở chỗ tiêm, khóc nhiều, buồn ngủ hoặc biếng ăn. Những tác dụng phụ này thường nhẹ và tự giảm sau vài ngày. Tuy nhiên, một số trường hợp hiếm hoi có thể gặp phải những biến cố nghiêm trọng như phản ứng dị ứng, co giật, hôn mê hoặc suy hô hấp. Nếu có bất kỳ triệu chứng nghi ngờ nào sau khi tiêm vắc-xin, cần liên hệ ngay với bác sĩ hoặc cơ sở y tế gần nhất.
Bệnh bạch hầu là một bệnh nguy hiểm có thể gây tử vong nếu không được điều trị kịp thời. Vì vậy, việc tiêm chủng vắc-xin là một biện pháp quan trọng để bảo vệ sức khỏe của trẻ em và cộng đồng.