Bác sĩ Phạm Văn Phúc, Phó Trưởng khoa Hồi sức tích cực (Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương), cho biết trong số các bệnh nhân SXH tử vong được nghiên cứu, có đến 50% bệnh nhân có dấu hiệu sốc từ rất sớm, trong đó có 4 ca ngưng tim.
Bệnh nhân SXH điều trị tại BV Bạch Mai (Ảnh: H.Minh)
Thống kê tại bệnh viện này trong 6 tháng qua có 15 ca sốt xuất huyết tử vong, trẻ nhất là em bé 13 tuổi, người lớn tuổi nhất ngoài 80. Đa số do bệnh nhân nhập viện muộn, chuyển đến Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương từ tuyến dưới, khi tới đây đã không thể cứu chữa.
Mới đây, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương ghi nhận 2 ca tử vong, đều là nam, 31 và 38 tuổi, có địa chỉ tại Hà Nội. Khi được chuyển đến từ bệnh viện tuyến dưới ở ngày thứ 5 và 7 của bệnh, cả hai đã rơi vào tình trạng sốc. Dù được điều trị tích cực, lọc máu, can thiệp ECMO (hệ thống tim phổi nhân tạo) nhưng tình trạng bệnh quá nặng, cả 2 tử vong sau 6 ngày điều trị.
Một điểm đáng báo động mà các bác sĩ nhận thấy ở bệnh nhân trong đợt dịch năm nay là lượng lớn bệnh nhân trở nặng rất nhanh. Điều này khác biệt với những mùa dịch trước. Trường hợp tử vong mới nhất là bệnh nhân nữ, 22 tuổi, có dấu hiệu thừa cân, được chuyển từ tuyến dưới lên trong tình trạng rất nặng: sốc, xuất huyết, thiếu máu nặng và đã từng một lần ngừng tim. Dù bác sĩ đã tìm đủ mọi cách để điều trị, hồi sức tích cực nhưng bệnh nhân vẫn không qua khỏi. "Không ít bệnh nhân chủ quan, không đến viện kịp thời là nguyên nhân dẫn đến việc tăng tỉ lệ diễn biến nặng và tử vong trong vụ dịch năm nay", bác sĩ Phúc nói.
Theo PGS.TS Đỗ Duy Cường, Giám đốc Trung tâm Bệnh nhiệt đới (Bệnh viện Bạch Mai) cho biết, Hà Nội và nhiều địa phương đang trong tình trạng lưu hành nhiều dịch bệnh truyền nhiễm như COVID-19, virus Adeno, cúm A, cúm B với triệu chứng chồng chéo. Bệnh nhân đồng nhiễm nhiều bệnh, còn bác sĩ các tuyến dễ chẩn đoán nhầm, không điều trị đúng, kịp thời.
Nguy cơ bệnh nặng khi tái mắc
Thực tế có rất nhiều bệnh nhân SXH không hề xuất huyết nhưng bị giảm tiểu cầu rất nặng và tử vong. "Trung bình một người có thể mắc SXH đến 4 lần trong đời. Đặc biệt, SXH tái nhiễm lần 2 thường nặng hơn lần đầu, thậm chí có thể gây tử vong", TS Đỗ Thiện Hải, Phó Giám đốc Trung tâm Bệnh nhiệt đới Trẻ em (Bệnh viện Nhi Trung ương) nói.
Nguyên nhân tái nhiễm được các bác sĩ chỉ ra là bệnh SXH do virus Dengue gây ra gồm type là D1, D2, D3 và D4. Hầu hết các trường hợp mắc bệnh là do virus dengue type D1 và D2 gây nên, sau đó là D3 và D4. Sau khi mắc SXH, người bệnh sẽ có miễn dịch trọn đời với type virus đã mắc nhưng không có miễn dịch chéo với các type virus còn lại. Do đó, người bệnh vẫn có thể bị SXH tái nhiễm với các tuýp virus khác.
Các chuyên gia truyền nhiễm cho hay, ở lần mắc SXH thứ 2, thứ 3 hoặc thứ 4 bệnh nhân mắc bệnh do các type huyết thanh khác. Khi đó, cơ thể người bệnh tồn tại song song 2 - 3 loại kháng thể. Các loại kháng thể này có thể xảy ra xung đột gây nên phản ứng sốt, đau mỏi, tăng xuất huyết thành mạch, tăng cô đặc máu, thậm chí là trụy tim.
PGS Cường khuyến cáo, mắc SXH trong những ngày đầu vẫn có thể chăm sóc tại nhà, người dân có thể cặp nhiệt độ hoặc theo dõi các dấu hiệu toàn thân khác. Nếu đau mỏi người, sốt cao cần được hạ sốt, giảm đau nhưng nên tránh dùng nhóm thuốc như: Aspirin, ibuprofen, vì nó có thể gây chảy máu; không dùng kháng sinh, không tự ý truyền dịch như đạm, albumin, truyền máu hay dung dịch cao phân tử, cần sự theo dõi chỉ định của các bác sĩ chuyên khoa. Bệnh nhân có thể uống nhiều nước, như nước hoa quả hoặc oresol, bù nước đầy đủ, ăn uống nghỉ ngơi. Sau ngày thứ 5 có thể sẽ hết sốt.
"Nếu bệnh nhân có biểu hiện thoát dịch hoặc cô đặc máu sẽ dẫn đến hiện tượng tụt huyết áp, đau bụng vùng gan, mệt mỏi, tay chân lạnh, nôn, xuất huyết dưới da, chảy máu cam, chảy máu chân răng, đi ngoài ra máu, phụ nữ có thể rong kinh, rong huyết. Đấy là những dấu hiệu cảnh báo cần phải nhập viện" - PGS Cường lưu ý.
Bác sĩ Đỗ Tuấn Anh, Trung tâm Nhi khoa (Bệnh viện Bạch Mai) lưu ý với trẻ em khi bị mắc SXH lần 2 sẽ là yếu tố nguy cơ cho tiến triển nặng. Bệnh nhân có thể có những diễn biến bất thường hơn, cần được theo dõi sát sao, đặc biệt là trên những bệnh nhân có bệnh mãn tính như tiểu đường, tim mạch, gan thận... hoặc phụ nữ có thai, trẻ nhỏ, trẻ sơ sinh, người cao tuổi.