Tìm ra manh mối truyền virus của dơi có thể ngăn chặn đại dịch COVID-19 tiếp theo.
Chuyến đi vào ban đêm vào tháng 11 là một phần của dự án tại Viện Fiocruz của Brazil nhằm thu thập và nghiên cứu các loại virus có trong động vật hoang dã, bao gồm cả dơi, mà nhiều nhà khoa học tin rằng có liên quan đến sự bùng phát của đại dịch COVID-19.
Trong khi các nhà khoa học vẫn đang gỡ rối bí ẩn, hai giả thuyết hàng đầu cho rằng dơi có thể đã tiến hóa cái mà Banerjee gọi là “cơ chế sửa chữa ADN hiệu quả” hoặc cơ thể của chúng có thể điều chỉnh chặt chẽ các tác nhân gây viêm và không phản ứng quá mức với các bệnh nhiễm virus.
Ông nói: “Việc chứng minh bí mật của hệ thống miễn dịch của dơi có thể giúp các nhà khoa học hiểu thêm về thời điểm dơi thải loại virus, cũng như cung cấp gợi ý cho các chiến lược điều trị y tế trong tương lai.”
Dơi và các động vật khác mang mầm bệnh không bẩm sinh gây nguy hiểm cho con người, trừ khi các điều kiện phù hợp cho sự kiện lan truyền. Cara Brook, một nhà sinh thái học về bệnh tại Đại học California, Mỹ cho biết: “Virus phải thoát ra khỏi vật chủ để chúng ta bị lây nhiễm.”
Sự phá hủy và chia cắt môi trường sống ngày càng gia tăng trên toàn thế giới, đặc biệt là các khu vực đa dạng sinh học như rừng nhiệt đới , có nghĩa là tỷ lệ tiếp xúc giữa động vật hoang dã và con người cao hơn, tạo ra nhiều cơ hội lan tỏa hơn.
Đó là lý do tại sao các nhà nghiên cứu Brazil chọn công viên Pedra Branca. Là một trong những khu rừng lớn nhất thế giới trong khu vực đô thị, nó mang đến sự tương tác liên tục của các loài động vật hoang dã với hàng nghìn con người và động vật nuôi trong các cộng đồng xung quanh.
Nghiên cứu dơi, mèo rừng, mèo nhà
Các nhà khoa học không chỉ nghiên cứu dơi mà còn cả các loài linh trưởng nhỏ, mèo rừng và mèo nhà trong những ngôi nhà có trường hợp COVID-19 được xác nhận.
Các nhà khoa học và chính phủ sẽ có cơ hội tốt hơn trong việc ngăn chặn các đợt bùng phát trong tương lai nếu họ có thông báo nhanh hơn về thời điểm và địa điểm chúng bắt đầu, Ian Mackay, một nhà virus học tại Đại học Queensland của Úc cho biết.
Ông nói: “Giám sát liên tục, liên tục, không ngừng nghỉ,”. Ông cũng gợi ý rằng các phòng thí nghiệm phát hiện virus có thể thường xuyên lấy mẫu nước thải hoặc vật liệu từ bệnh viện.”
Tại Ấn Độ, Sứ mệnh Quốc gia về Đa dạng Sinh học và Sức khỏe Con người đã được giải quyết từ năm 2018 và có thể sẽ được khởi động vào năm tới. Abi Tamim Vanak, nhà khoa học bảo tồn tại Ashok Trust for Research in Ecology and Environment ở Bengaluru, nói rằng một phần cốt lõi của kế hoạch là thiết lập 25 điểm giám sát trọng điểm trên khắp đất nước ở cả nông thôn và thành thị.
“Chúng sẽ là tuyến phòng thủ đầu tiên,” ông nói.
Trong số những nỗ lực đầy tham vọng nhất là Dự án Virome Toàn cầu, nhằm mục đích phát hiện 500.000 loại virus mới trong vòng 10 năm.
Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ gần đây đã công bố khởi động dự án STOP Spillover trị giá 100 triệu đô la, một nỗ lực do các nhà khoa học tại Đại học Tufts và bao gồm các đối tác toàn cầu dẫn đầu để nghiên cứu các bệnh lây truyền từ động vật sang châu Phi và châu Á.
Các nhà khoa học cho biết, coi dơi là kẻ thù, phỉ báng chúng, ném đá hoặc cố gắng thiêu rụi chúng khỏi hang động là lợi bất cập hại.
Một cuộc điều tra của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ và các cơ quan y tế Uganda cho thấy, sau khi cố gắng tiêu diệt những con dơi khỏi một hang động ở Uganda, những con dơi còn lại có mức độ nhiễm virus Marburg cao hơn. Điều này dẫn đến đợt bùng phát dịch sốt xuất huyết Marburg nghiêm trọng nhất ở Uganda, do virus gây ra, vào năm 2012.
Vikram Misra, một nhà virus học tại Đại học Saskatchewan ở Canada, cho biết: “Căng thẳng là một yếu tố rất lớn làm đảo lộn sự cân bằng tự nhiên mà dơi có với virus của chúng - bạn càng căng thẳng thì dơi càng thải ra nhiều virus hơn.
Dơi cũng đóng những vai trò quan trọng trong hệ sinh thái. Chúng tiêu diệt côn trùng như muỗi, thụ phấn cho cây như cây thùa và phân tán hạt giống.
Kristen Lear, một nhà sinh thái học tại Bat Conservational International, cho biết: “Chúng ta thực sự cần dơi trong tự nhiên để tiêu diệt côn trùng phá hoại thu hoạch bông, ngô và hồ đào.”
Frank nói, cách tiếp cận tốt hơn để giảm thiểu nguy cơ dịch bệnh chỉ đơn giản là giảm thiểu sự tiếp xúc giữa dơi hoang dã với người và gia súc.
Bà gợi ý rằng nghiên cứu về thời điểm dơi di cư và khi đàn con mới được sinh ra, có thể đưa ra quyết định về thời điểm mọi người nên tránh những khu vực nhất định hoặc nhốt gia súc của họ lại.
Ở Bắc Mỹ, một số nhà khoa học ủng hộ việc hạn chế công chúng tiếp cận các hang động nơi dơi trú ngụ.
Có lẽ yếu tố quan trọng nhất khiến dơi tiếp xúc thường xuyên hơn với người và vật nuôi là môi trường sống bị phá hủy, buộc dơi phải tìm kiếm các bãi kiếm ăn và làm ổ mới.
Một chuỗi sự kiện tương tự cũng diễn ra ở Bangladesh, khi sự tàn phá môi trường sống đã đẩy dơi ăn quả vào các thành phố, nơi chúng lây lan virus Nipah, gây viêm não nặng ở người, bằng cách liếm nhựa cây chà là từ thùng thu gom.
Để có khả năng đảo ngược sự di chuyển của loài dơi, Plowright của Đại học Bang Montana và các đồng nghiệp có trụ sở tại Úc đang nghiên cứu khôi phục môi trường sống ban đầu của loài dơi.
Cô nói: “Mọi thành phố ở Úc đều có nhiều dơi ăn quả bị mất môi trường sống mùa đông. Ý tưởng là trồng những khu rừng mới và đảm bảo chúng cách xa những nơi có động vật và con người trong nhà”.
Giảm tiếp xúc giữa người và động vật hoang dã
Cho dù mục tiêu là hạn chế sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm từ động vật đã biết hay để giảm nguy cơ các bệnh mới xuất hiện như đại dịch, chiến lược đều giống nhau: Giảm tiếp xúc giữa người và động vật hoang dã.
Ricardo Moratelli, điều phối viên của dự án Fiocruz ở Brazil, cho biết: “Trong lịch sử COVID-19, dơi là nạn nhân nhiều hơn là thủ phạm. Dơi là nơi trú ngụ của một số lượng lớn ký sinh trùng, và chúng đối phó tốt với những ký sinh trùng này. Vấn đề là khi nào con người tiếp xúc với chúng".