Chị Bùi Thị H. (41 tuổi, Hà Nội) đi khám sản vì chị thấy hay đau bụng vùng chậu, đặc biệt khi ân ái vợ chồng. Khoảng hai tháng nay, chị H. còn bị ra máu giữa chu kỳ kinh nguyệt. Khám lâm sàng, bác sĩ thấy chị có sang thương ở cổ tử cung. Đặc biệt xét nghiệm tế bào học, soi tươi tế bào âm đạo có tế bào ác tính. Kết quả khám cho thấy chị bị ung thư cổ tử cung do virus HPV.
Chị H. đã kết hôn 12 năm, chung thuỷ chỉ quan hệ tình dục với chồng. Chồng chị trước đó cũng đã ly hôn một lần. Khi hỏi ra, chị H. còn bất ngờ hơn đó là vợ cũ của chồng cũng bị ung thư cổ tử cung.
Bác sĩ cho rằng người chồng khả năng mang HPV từ trước với vợ cũ, sau đó lây nhiễm sang người vợ sau.
Theo bác sĩ Nguyễn Văn Tiến – Trưởng khoa Ngoại phụ khoa, Bệnh viện Ung bướu TP.HCM, virus HPV lây truyền qua đường tình dục thường gặp nhất. Đặc điểm sinh học của những virus này đã được nghiên cứu rất nhiều và mối liên hệ của nó với ung thư đã được xác định, đặc biệt là những ung thư liên quan đến vùng hậu môn sinh dục (cổ tử cung, âm đạo, âm hộ, dương vật, hậu môn) và ung thư vùng đầu cổ.
Thực tế, BS Tiến cho biết tỷ lệ nhiễm HPV sinh dục ngày càng lan rộng do giao hợp không an toàn hoặc tiếp xúc da trực tiếp với vùng bị nhiễm.
Cả rối loạn suy giảm miễn dịch nguyên phát và thứ phát có thể làm cho bệnh nhân dễ nhiễm HPV và phát triển thành ung thư ở mô bị nhiễm. Hầu hết mọi người không có bất kỳ triệu chứng nào khi bị nhiễm HPV, và đó là lý do sự lây nhiễm sẽ dễ dàng hơn. Nhưng ở một số người, nhiễm HPV sẽ không biến mất.
Mặc dù suy giảm miễn dịch nguyên phát rất hiếm nhưng nên cân nhắc khả năng bệnh nhân bị rối loạn miễn dịch khi có nhiễm HPV nặng.
Khi nhiễm HPV, có hai nhóm được chia theo nguy cơ. Nhóm nguy cơ cao: Gồm HPV các tuýp 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56 , 58, 59, 68; Nhóm nguy cơ thấp là virus HPV có tuýp 6, 11, 40, 42, 43, 44, 53, 54, 61, 72, 73, 81.
Trong đó, virus HPV tuýp 16 và 18 được phân lập nhiều nhất trong ung thư cổ tử cung, tuýp 16 tìm thấy trong khoảng 50% bệnh nhân. Tuy nhiên, không phải tất cả bệnh nhân nhiễm HPV 16 hoặc 18 đều diễn tiến thành ung thư. Hơn nữa, trong các tuýp HPV thì nguy cơ sinh ung khác nhau.
HPV cũng là nguyên nhân gây ung thư dương vật. Nam giới nhiễm HPV cũng là một yếu tố nguy cơ ung thư dương vật. Trong một nghiên cứu bệnh chứng, có 33/67 ca ung thư dương vật dương tính với HPV, trong đó 70% ca là HPV 16. Hơn nữa, nguy cơ ung thư dương vật ở nam có bệnh sử sùi mào gà cao hơn 5,9 lần so với nam không có bệnh.
BS Tiến cho biết hiện nay xét nghiệm HPV là một phần trong chương trình tầm soát ung thư cổ tử cung, có thể thực hiện riêng lẻ hoặc cùng với xét nghiệm Pap ở phụ nữ trên 25 tuổi. Xét nghiệm Cobas 4800 hiện là xét nghiệm duy nhất được FDA công nhận để phát hiện HPV nguyên phát.
Xét nghiệm HPV giúp kiểm tra phát hiện sự hiện diện của virus u nhú ở người (HPV), đây là một xét nghiệm tầm soát ung thư cổ tử cung, áp dụng cho phụ nữ từ 30 tuổi trở lên. Xét nghiệm này không áp dụng cho nam giới.
Xét nghiệm HPV không cho kết quả việc cơ thể người có mắc ung thư hay không. Xét nghiệm HPV sẽ giúp phát hiện virus HPV nguy cơ cao như HPV 16 và 18 làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung.
BS Tiến khuyến cáo tất cả phụ nữ, kể cả những người chủng ngừa HPV, nên được kiểm tra theo lịch trình thường quy cho bệnh ung thư cổ tử cung. Hầu hết phụ nữ được kiểm tra bằng cách sử dụng một thử nghiệm gọi là "pap smear" bắt đầu từ tuổi 21.