Đa số các trường hợp nhập viện trong tình trạng thiếu máu nặng do tan máu, kèm theo suy đa tạng. Hiện tại, Bệnh viện đa khoa tỉnh Hòa Bình đang điều trị 2 bệnh nhân ngộ độc do sử dụng lá du mại chế biến thức ăn và đun nước uống.
Bệnh nhân thứ nhất là nam giới, 78 tuổi, hái lá du mại đun với nước để uống chữa táo bón. Sau khi uống nước đun với lá du mại một vài hôm, bệnh nhân xuất hiện vàng da, vàng mắt, nước tiểu đỏ, tiểu ít, kèm theo sốt và mệt mỏi nhiều, được người nhà đưa đi cấp cứu. Khi nhập viện, bệnh nhân rơi vào tình trạng lơ mơ, suy hô hấp, tụt huyết áp, da xanh, niêm mạc-củng mạc mắt vàng, vô niệu (không có nước tiểu).
Xét nghiệm máu, bệnh nhân có tình trạng thiếu máu nặng, suy gan cấp, tổn thương thận cấp, rối loạn nước-điện giải và rối loạn toan-kiểm. Bệnh nhân nhanh chóng được cấp cứu ban đầu, sau đó được điều trị chuyên sâu bằng thuốc vận mạch để duy trì huyết áp; thở máy, lọc máu liên tục, lọc máu chu kỳ và thay huyết tương để hỗ trợ các tạng suy. Ngoài ra, bệnh nhân còn phải truyền một khối lượng lớn máu và các chế phẩm của máu. Hiện tại, bệnh nhân đã qua cơn nguy kịch nhưng vẫn đang phải điều trị và chăm sóc tích cực.
Bệnh nhân thứ hai là nam giới, 28 tuổi, đi ăn cỗ có món ăn được chế biến với lá du mại. Sau vài hôm, bệnh nhân xuất hiện mệt mỏi, vàng da, vàng mắt, đi tiểu ít và nước tiểu màu đỏ. Nhập viện trong tình tạng mệt nhiều, da xanh, niêm mạc-củng mạc mắt vàng. Xét nghiệm máu có tình trạng thiếu máu nặng, suy gan cấp, tổn thương thận cấp và rối loạn nước-điện giải. Bệnh nhân được điều trị tích cực, truyền máu nhiều lần. Hiện tại, bệnh nhân đã qua cơn nguy kịch và đang được theo dõi sát tình trạng sức khỏe.
Lá du mại thường được bà con sử dụng làm rau ăn, chế biến với thức ăn hoặc đun nước uống để chứa một số bệnh trong đó có bệnh táo bón. Độc tố của lá du mại có thể gây vỡ hồng cầu (tan máu) dẫn đến thiếu máu nặng, đặc biệt là ở những người thiếu hụt men G6PD (Glucose-6-phosphat dehydrogenase).
Men G6PD giúp cho tế bào hồng cầu hoạt động bình thường, khi bị thiếu hụt loại men này, hồng cầu sẽ bị vỡ khi có các tác nhân bên ngoài, trong đó có độc tố của lá du mại. Điều này lý giải cho việc trong một mâm cỗ có thức ăn chế biến với lá du mại, có người bị tan máu, có người không bị.
Nguyên nhân gây bệnh thiếu men G6PD là sự đột biến gen trên nhiễm sắc thể giới tính X. Nam giới bình thường chỉ có một nhiễm sắc thể giới tính X (XY), trong khi nữ giới có tới 2 nhiễm sắc thể giới tính X (XX). Vì vậy bệnh thường biểu hiện ở nam giới. Trong khi nữ giới cần đến sự biến đổi ở cả cặp nhiễm sắc thể giới tính mới gây thiếu men G6PD nên bệnh ít gặp hơn ở nữ.
Cây du mại hay còn gọi là cây lộc mại-mọ trắng-rau mại- rau mọi. Cây lộc mại cũng có nhiều loại và hình dạng lá khác nhau: lộc mại lá dài, lộc mài nhỏ, lộc mại trái láng. Cây du mại mọc tự nhiên, phổ biến nhất ở các tỉnh miền núi phía Bắc: Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên.
Bà con không nên sử dụng lá du mại để làm thức ăn hoặc đun nước uống vì sự nguy hiểm của nó đến sức khỏe con người, đặc biệt là những người bị thiếu hụt men G6PD. Khi không may bị ngộ độc độc lá du mại, người dân cần nhanh chóng đến các cơ sở y tế để được điều trị hoặc chuyển tuyến trên kịp thời.
Các trường hợp ngộ độc lá du mại, nhập viện trong tình tạng nặng, thường phải áp dụng các biện pháp điều trị chuyên sâu mới có hy vọng cứu sống người bệnh, như: rửa dạ dày, thở máy, lọc máu, thay huyết tương, điều chỉnh rối loạn nước-điện giai và điều chỉnh rối loạn toan-kiềm máu.