Số ca mắc COVID-19 trong nước từ 27/04/2021
Xem thêm số liệu dịch COVID-19 >STT | Tỉnh thành | Ca nhiễm mới hôm nay |
Tổng Ca nhiễm |
Ca tử vong |
Ca tử vong công bố hôm nay |
---|---|---|---|---|---|
TỔNG | +8.145 | 995.903 | 22.814 | 84 | |
1 | TP.HCM | +1.185 | 443.815 | 16.926 | 38 |
2 | Hà Nội | +154 | 5.816 | 61 | 0 |
3 | Đồng Nai | +930 | 75.790 | 620 | 6 |
4 | Tây Ninh | +656 | 14.342 | 173 | 3 |
5 | Bình Dương | +615 | 241.642 | 2.529 | 6 |
6 | An Giang | +595 | 15.555 | 177 | 5 |
7 | Tiền Giang | +417 | 19.516 | 437 | 3 |
8 | Kiên Giang | +399 | 13.453 | 114 | 3 |
9 | Đồng Tháp | +352 | 12.144 | 270 | 1 |
10 | Bạc Liêu | +291 | 6.172 | 58 | 3 |
11 | Bình Thuận | +237 | 7.786 | 75 | 2 |
12 | Bà Rịa - Vũng Tàu | +185 | 6.047 | 53 | 0 |
13 | Cà Mau | +181 | 3.592 | 16 | 0 |
14 | Đắk Lắk | +162 | 5.658 | 23 | 1 |
15 | Vĩnh Long | +159 | 3.842 | 64 | 1 |
16 | Long An | +130 | 36.179 | 520 | 6 |
17 | Khánh Hòa | +128 | 9.685 | 104 | 0 |
18 | Trà Vinh | +121 | 3.778 | 21 | 0 |
19 | Bình Phước | +108 | 2.588 | 13 | 0 |
20 | Hà Giang | +97 | 2.063 | 0 | 0 |
21 | Bắc Ninh | +68 | 2.673 | 14 | 0 |
22 | Hậu Giang | +68 | 1.888 | 6 | 0 |
23 | Bến Tre | +64 | 3.048 | 73 | 1 |
24 | Bình Định | +63 | 2.095 | 18 | 1 |
25 | Phú Thọ | +61 | 1.313 | 0 | 0 |
26 | Đắk Nông | +60 | 1.230 | 8 | 0 |
27 | Nam Định | +59 | 626 | 1 | 0 |
28 | Cần Thơ | +55 | 8.867 | 145 | 2 |
29 | Lâm Đồng | +54 | 762 | 4 | 0 |
30 | Thanh Hóa | +49 | 1.407 | 6 | 0 |
31 | Gia Lai | +43 | 2.260 | 5 | 0 |
32 | Quảng Ngãi | +41 | 1.900 | 8 | 0 |
33 | Thừa Thiên Huế | +41 | 1.432 | 11 | 0 |
34 | Ninh Thuận | +35 | 3.014 | 35 | 0 |
35 | Nghệ An | +32 | 2.836 | 19 | 1 |
36 | Quảng Nam | +27 | 1.569 | 5 | 0 |
37 | Bắc Giang | +26 | 6.342 | 14 | 0 |
38 | Hải Dương | +26 | 307 | 1 | 0 |
39 | Quảng Ninh | +24 | 178 | 0 | 0 |
40 | Lạng Sơn | +20 | 270 | 1 | 0 |
41 | Quảng Trị | +18 | 536 | 2 | 0 |
42 | Phú Yên | +16 | 3.231 | 34 | 0 |
43 | Điện Biên | +15 | 197 | 0 | 0 |
44 | Quảng Bình | +15 | 2.052 | 6 | 0 |
45 | Hưng Yên | +14 | 466 | 2 | 0 |
46 | Đà Nẵng | +13 | 5.140 | 74 | 0 |
47 | Hà Tĩnh | +9 | 653 | 5 | 0 |
48 | Thái Nguyên | +5 | 77 | 0 | 0 |
49 | Vĩnh Phúc | +5 | 328 | 3 | 0 |
50 | Ninh Bình | +4 | 131 | 0 | 0 |
51 | Sơn La | +4 | 321 | 0 | 0 |
52 | Kon Tum | +4 | 332 | 0 | 0 |
53 | Hà Nam | +2 | 1.172 | 0 | 0 |
54 | Tuyên Quang | +1 | 40 | 0 | 0 |
55 | Yên Bái | +1 | 19 | 0 | 0 |
56 | Hòa Bình | +1 | 28 | 0 | 0 |
57 | Lào Cai | 0 | 149 | 0 | 0 |
58 | Bắc Kạn | 0 | 9 | 0 | 0 |
59 | Hải Phòng | 0 | 89 | 0 | 0 |
60 | Cao Bằng | 0 | 4 | 0 | 0 |
61 | Lai Châu | 0 | 35 | 0 | 0 |
62 | Thái Bình | 0 | 136 | 0 | 0 |
63 | Sóc Trăng | 0 | 7.278 | 60 | 1 |
Tình hình tiêm chủng vaccine ở Việt Nam
Xem thêm số liệu vaccine COVID-19 >Số mũi đã tiêm toàn quốc
96.669.683
Số mũi tiêm hôm qua
981.087
Trả lời trước Quốc hội ngày 10/11 về tiến độ nghiên cứu sản xuất vắc-xin phòng COVID-19 trong nước, Bộ trưởng Nguyễn Thanh Long nhấn mạnh, Bộ Y tế hết sức quan tâm và mong muốn chủ động được nguồn vắc-xin trong nước. Tuy nhiên, việc cấp phép sản xuất vắc-xin trong nước phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Vắc-xin COVID-19. (Ảnh minh họa).
Bộ Y tế đã cố gắng để giảm tối đa thời gian thực hiện các thủ tục hành chính nhưng về mặt khoa học thì phải tuân thủ.
Bộ Y tế đã thành lập 2 hội đồng (Hội đồng Y đức và Hội đồng cấp phép). Các hội đồng này hoạt động độc lập với Bộ trưởng.
Được biết, thời gian qua các hội đồng đã phối hợp rất chặt chẽ với các đơn vị nghiên cứu, sản xuất để hoàn thiện hồ sơ cấp phép theo quy định. Thời gian cụ thể phải chờ đợi kết quả từ 2 hội đồng.
Trả lời câu hỏi của đại biểu về trách nhiệm tham mưu của Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long cho biết, trong việc xây dựng và triển khai chiến lược vắc-xin, Bộ trưởng Nguyễn Thanh Long cho rằng, Việt Nam tiếp cận vắc-xin sớm nhưng mua muộn hơn so với nhiều nước.
Theo Bộ trưởng, có nhiều lý do gồm khách quan và chủ quan. Từ tháng 9/2020, Việt Nam đã làm việc và có thỏa thuận với COVAX.
Tháng 11/2020, Việt Nam đã có thỏa thuận với Astra Zeneca để cung ứng 30 triệu liều vắc-xin. Trước đó, từ tháng 5/2020, Bộ Y tế đã gặp gỡ các công ty để thúc đẩy nghiên cứu, sản xuất vắc-xin trong nước.
Tuy nhiên, do nhiều yếu tố khách quan dẫn đến việc mua chậm.
Thứ nhất là do tình trạng khan hiếm vắc-xin trên quy mô toàn cầu diễn ra cả năm qua và kéo dài đến nay.
Thứ hai, một số nước phát triển sản xuất được vắc-xin đã đặt hàng mua với số lượng rất lớn. Bộ trưởng cho rằng đây là tình trạng bất bình đẳng trong vấn đề cung ứng vắc-xin trên quy mô toàn cầu. Có nước đặt hàng cao hơn nhu cầu sử dụng đến 4 lần.
Thứ ba, là do tâm lý sử dụng vắc-xin "không phải lúc nào cũng như hiện nay". Vào đầu năm 2021 đã có tình trạng tẩy chay, từ chối sử dụng vắc-xin diễn ra không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều nước trên thế giới.
Thứ tư, hàng loạt khó khăn Việt Nam gặp phải khi mua vắc-xin trong đó có cả rào cản về pháp luật. Bên bán đề ra các điều kiện và không cho thương thuyết.
Ngoài ra, Việt Nam phải chấp nhận toàn bộ rủi ro khi mua vắc-xin như có thể giao hàng chậm, giá mua sau này thấp hơn cũng không được giảm giá, không được trả lại vắc-xin kể cả trong trường hợp chất lượng không đảm bảo; chỉ khi nào quốc tế công nhận vắc-xin đó không đảm bảo mới được trả lại. Bên bán cũng không chịu trách nhiệm về giao hàng không đúng thời hạn.
"Đây là những khó khăn trong việc mua vắc-xin. Những vấn đề này, luật pháp Việt Nam cũng chưa có quy định", Bộ trưởng nói.
Đến nay, Việt Nam được đánh giá là nước có tổ chức tiêm và bao phủ vắc-xin rất nhanh. Bộ Y tế nhận trách nhiệm về vấn đề này và đã triển khai đảm bảo vắc-xin cho năm 2021 và năm 2022.