Số ca mắc COVID-19 trong nước từ 27/04/2021
Xem thêm số liệu dịch COVID-19 >STT | Tỉnh thành | Ca nhiễm mới hôm qua |
Tổng Ca nhiễm |
Ca tử vong |
Ca tử vong công bố hôm qua |
---|---|---|---|---|---|
TỔNG | +27.302 | 2.477.326 | 38.825 | 78 | |
1 | Hà Nội | +2.981 | 165.826 | 726 | 18 |
2 | TP.HCM | +300 | 515.669 | 20.251 | 3 |
3 | Nam Định | +1.842 | 20.464 | 23 | 2 |
4 | Hải Dương | +1.681 | 21.373 | 30 | 0 |
5 | Nghệ An | +1.550 | 25.695 | 52 | 2 |
6 | Hải Phòng | +1.394 | 39.782 | 85 | 3 |
7 | Thái Nguyên | +978 | 13.467 | 13 | 2 |
8 | Ninh Bình | +951 | 8.688 | 26 | 1 |
9 | Đà Nẵng | +940 | 42.836 | 148 | 4 |
10 | Vĩnh Phúc | +931 | 17.962 | 14 | 0 |
11 | Hòa Bình | +884 | 14.715 | 37 | 0 |
12 | Phú Thọ | +811 | 15.620 | 13 | 0 |
13 | Thanh Hóa | +797 | 28.306 | 25 | 0 |
14 | Bắc Ninh | +745 | 46.289 | 86 | 4 |
15 | Quảng Ninh | +659 | 15.640 | 12 | 0 |
16 | Phú Yên | +569 | 12.014 | 59 | 0 |
17 | Quảng Bình | +567 | 9.470 | 12 | 0 |
18 | Lạng Sơn | +558 | 6.532 | 21 | 1 |
19 | Quảng Nam | +553 | 21.118 | 38 | 3 |
20 | Gia Lai | +525 | 11.629 | 37 | 0 |
21 | Bắc Giang | +520 | 20.249 | 23 | 0 |
22 | Thái Bình | +498 | 11.679 | 5 | 0 |
23 | Quảng Trị | +465 | 7.108 | 9 | 0 |
24 | Sơn La | +459 | 6.555 | 0 | 0 |
25 | Bình Định | +455 | 37.910 | 166 | 2 |
26 | Hưng Yên | +448 | 21.363 | 2 | 0 |
27 | Lào Cai | +431 | 6.010 | 9 | 0 |
28 | Tuyên Quang | +394 | 5.651 | 4 | 0 |
29 | Lâm Đồng | +350 | 19.421 | 74 | 2 |
30 | Đắk Nông | +318 | 9.833 | 27 | 0 |
31 | Thừa Thiên Huế | +274 | 23.727 | 165 | 0 |
32 | Bình Phước | +269 | 48.589 | 175 | 0 |
33 | Hà Nam | +208 | 7.887 | 5 | 0 |
34 | Hà Tĩnh | +197 | 4.817 | 6 | 0 |
35 | Yên Bái | +197 | 4.236 | 5 | 0 |
36 | Khánh Hòa | +193 | 63.010 | 299 | 0 |
37 | Quảng Ngãi | +161 | 16.091 | 60 | 2 |
38 | Cao Bằng | +131 | 2.726 | 6 | 0 |
39 | Điện Biên | +118 | 3.607 | 1 | 0 |
40 | Bà Rịa - Vũng Tàu | +117 | 32.379 | 444 | 0 |
41 | Hà Giang | +108 | 13.252 | 34 | 1 |
42 | Lai Châu | +95 | 1.667 | 0 | 0 |
43 | Bắc Kạn | +85 | 1.709 | 5 | 0 |
44 | Cà Mau | +84 | 57.165 | 287 | 0 |
45 | Vĩnh Long | +71 | 54.014 | 760 | 4 |
46 | Bình Dương | +69 | 293.047 | 3.393 | 1 |
47 | Bình Thuận | +55 | 30.066 | 403 | 1 |
48 | Bến Tre | +53 | 42.440 | 416 | 5 |
49 | Bạc Liêu | +43 | 35.784 | 373 | 0 |
50 | Tây Ninh | +40 | 88.493 | 836 | 3 |
51 | Trà Vinh | +36 | 38.265 | 230 | 0 |
52 | Kiên Giang | +26 | 33.612 | 826 | 0 |
53 | Cần Thơ | +23 | 44.617 | 903 | 3 |
54 | Hậu Giang | +21 | 16.125 | 199 | 1 |
55 | Đồng Nai | +20 | 99.989 | 1.734 | 7 |
56 | Long An | +19 | 41.847 | 983 | 0 |
57 | Đồng Tháp | +11 | 47.563 | 988 | 2 |
58 | An Giang | +11 | 35.294 | 1.310 | 0 |
59 | Ninh Thuận | +10 | 7.016 | 55 | 0 |
60 | Tiền Giang | +3 | 35.024 | 1.237 | 0 |
61 | Sóc Trăng | 0 | 32.540 | 577 | 1 |
62 | Đắk Lắk | 0 | 17.754 | 83 | 0 |
63 | Kon Tum | 0 | 4.100 | 0 | 0 |
Tình hình tiêm chủng vaccine ở Việt Nam
Xem thêm số liệu vaccine COVID-19 >Số mũi đã tiêm toàn quốc
185.254.387
Số mũi tiêm hôm qua
385.508
Việt Nam đang có lộ trình triển khai tiêm vắc-xin cho trẻ 5-11 tuổi trong quý 1 và quý 2 năm 2022.
Hiện các phụ huynh có con ở độ tuổi này băn khoăn liệu khi tiêm liều bằng 1/3 người lớn có đủ hiệu lực bảo vệ hay không và cần lưu ý gì sau tiêm đối với trẻ.
TS, BS Phạm Quang Thái, Trưởng Văn phòng Tiêm chủng mở rộng Khu vực miền bắc, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương cho rằng, việc quy định tuổi chỉ mang ý nghĩa nhất định vì có những trẻ 10-11 tuổi đã phát triển tương đương trẻ 13-14 tuổi. Thực tế là liều 10 mg đã có thể tạo ra miễn dịch ngay cả với trẻ lớn, ngoài ra, khi trẻ qua mốc 12 tuổi có thể được tiêm mũi tăng cường với liều như của người lớn.
Tiêm vắc-xin COVID-19. (Ảnh minh họa)
Phần lớn tâm lý người lớn đang lo ngại quá đáng với liều vắc-xin, trong khi nhiễm virus thật còn nguy hiểm hơn nhiều lần. Do đó, các bậc phụ huynh không nên do dự trước việc tiêm vắc-xin COVID-19 cho con mình kể cả ở nhóm tuổi nhỏ.
Theo bác sĩ Thái, giai đoạn đầu tiêm cho trẻ 12-17 tuổi cũng loạn thông tin, có nhiều thông tin sai sự thật, làm ảnh hưởng tới tâm lý của phụ huynh và trẻ nhỏ khi tiêm.
Sau đó, Bộ Y tế tiếp tục có những tập huấn để nhân viên y tế phân biệt rõ hơn giữa phản ứng do sợ hãi với phản vệ, làm giảm đi các trường hợp tưởng là phản vệ nhưng thực tế chỉ là cảm giác sợ hãi, tâm lý khi tiêm.
TS. BS Phạm Quang Thái, Trưởng Văn phòng Tiêm chủng mở rộng Khu vực miền bắc, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương cho biết, về nguyên tắc, khi thử nghiệm lâm sàng thuốc và vaccine, các nhà nghiên cứu sẽ dò liều nào thấp nhất nhưng vẫn sinh miễn dịch tối ưu, tức là miễn dịch phải đủ tốt để bảo vệ.
Theo hướng dẫn từ hãng dược Pfizer, trẻ từ 5 đến 11 tuổi sử dụng vắc-xin với liều 10 microgam, bằng một phần ba so với người lớn và thanh thiếu niên. Liều thứ hai tiêm ít nhất 8 tuần sau liều đầu tiên. Trẻ em 5-11 tuổi phần lớn chưa bước vào giai đoạn dậy thì, chưa trải qua quá trình cơ thể thay đổi hormone, do đó ít xảy ra các phản ứng phụ sau tiêm.
“Tiêm cho trẻ em liều như thế gần như không có các phản ứng phụ bất lợi nên được đánh giá là mũi tiêm an toàn”, bác sĩ Thái cho hay.
Về vấn đề viêm cơ tim như nhiều phụ huynh lo ngại, bác sĩ Thái nhấn mạnh, với liều tiêm 10 microgam ở trẻ nhỏ, gần như không thấy trường hợp nào gặp phải vấn đề với cơ tim.
Hiện nay, thế giới đã có 44 quốc gia đã triển khai tiêm vắc-xin này, tuy nhiên số liều vắc-xin được tiêm chỉ có 17 quốc gia báo cáo với khoảng 12 triệu liều vắc-xin.
Ngoài sốt, sưng đau tại chỗ, mệt mỏi 1-2 hôm sau đó hết, các nước đã tiêm vắc-xin cho đối tượng trẻ độ tuổi này không gặp biến cố bất lợi nào ghê gớm hay viêm cơ tim. Đó là lý do vì sao vắc-xin được tiêm giảm liều một cách an toàn nhưng vẫn có hiệu lực bảo vệ.
Dữ liệu từ các thử nghiệm lâm sàng cho thấy tác dụng phụ của vắc-xin Pfizer (loại vắc-xin được nhiều nước chấp thuận tiêm cho trẻ nhỏ) cũng giống với các vắc-xin cơ bản mà trẻ tiêm vào những tháng đầu đời. Phản ứng phổ biến nhất là mệt mỏi, ớn lạnh, đau nhức cơ, sưng đỏ cánh tay. Những triệu chứng này sẽ biến mất sau vài ngày, không có báo cáo về tác dụng phụ lâu dài.
Bác sĩ Thái lưu ý, trẻ em không như người lớn, sau tiêm có thể đau khóc hoặc mải chơi, dẫn tới khả năng thông báo cho người lớn về sức khỏe sẽ kém hơn. Do đó, khi tiêm cho trẻ, các nhân viên y tế cần cẩn trọng hơn, dặn dò gia đình theo dõi dấu hiệu triệu chứng sau tiêm.