Hiện nay, nhiều bệnh nhân sau khi nhiễm COVID-19 đã gặp các triệu chứng tồn tại dai dẳng, thậm chí phải quay trở lại bệnh viện để điều trị. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, có 33% -76% người bệnh có thể gặp triệu chứng hậu COVID-19 kéo dài ít nhất 6 tháng sau khi nhiễm bệnh.
Mày đay hậu COVID-19 chính là kết quả của các phản ứng viêm toàn thân cấp tính khi nhiễm SARS-CoV-2 gây giải phóng các cytokine tiền viêm và hoạt hóa tế bào mast.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã công bố định nghĩa chính thức đầu tiên về Hội chứng hậu COVID-19. Theo đó, tình trạng hậu COVID-19 xảy ra ở những người có tiền sử nhiễm bệnh với các triệu chứng và kéo dài ít nhất 2 tháng mà không thể giải thích bằng chẩn đoán thay thế.
Tình trạng này có thể khiến sức khỏe người bệnh bị suy giảm kéo dài, có tác động nghiêm trọng đến khả năng quay trở lại làm việc hoặc tham gia cuộc sống xã hội. Hậu COVID-19 ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần thể chất và có thể gây ra những hậu quả kinh tế đáng kể cho bản thân, gia đình và cho xã hội.
1. Vì sao hậu COVID-19 lại xuất hiện mày đay?
Có khoảng 200 triệu chứng liên quan đến Hội chứng hậu COVID-19, đặc biệt ở những bệnh nhân đã trải qua điều trị hồi sức tích cực. Người nhiễm COVID-19 nhiều tuần đến nhiều tháng sau khi khỏi bệnh vẫn còn đối mặt với hàng loạt triệu chứng và di chứng kéo dài như sốt nhẹ, khó thở, ho kéo dài, mệt mỏi, đau cơ, khớp, rụng tóc, xơ phổi, tim đập nhanh hoặc đánh trống ngực, rối loạn tiêu hóa (ăn không ngon miệng, chán ăn, đau dạ dày, tiêu chảy…), rối loạn vị giác hoặc khứu giác… Trong đó, đa số các trường hợp gặp phải các triệu chứng của mày đay.
Đa số các trường hợp hậu COVID-19 gặp phải các triệu chứng của mày đay.
Mày đay có thương tổn da là những sẩn phù được bao quanh bởi quầng đỏ, rất ngứa. Các sẩn có thể tồn tại từ 30 phút tới 36 giờ, có kích thước từ 1 mm tới vài cm (mày đay khổng lồ), khi ấn mất màu. Đặc trưng của mày đay là các mạch máu bị giãn và tăng tính thấm. Mày đay có thể có hoặc không kèm theo phù mạch với biểu hiện chính là sưng phù, da phía trên đỏ hoặc bình thường, ít ngứa nhưng đau và rát bỏng.
Mày đay thường được phân loại thành 2 nhóm chính:
Mày đay cấp tính khi thời gian xuất hiện dưới 6 tuần.
Mày đay mạn tính khi nó tồn tại và tái phát lâu hơn 6 tuần.
Sự xuất hiện của mảng hồng ban nổi trên bề mặt da được cho là do sự tăng tính nhạy cảm của tương bào (tế bào mast) gây phóng thích histamine và các chất trung gian hóa học khác như leukotrien, cytokine, chemokine dẫn tới tăng tính thấm thành mạch và làm sưng nề mô da và tình trạng giãn mạch làm da trở nên đỏ.
Trước đây, người ta cho rằng mày đay trên da có nguyên nhân từ các thuốc điều trị COVID-19. Nhưng, nhiều trường hợp được báo cáo là tình trạng này xuất hiện trước cả khi sử dụng thuốc. Tuy nhiên, ý kiến của nhiều nhà khoa học cho rằng, mày đay hậu COVID-19 chính là kết quả của các phản ứng viêm toàn thân cấp tính khi nhiễm SARS-CoV-2 gây giải phóng các cytokine tiền viêm và hoạt hóa tế bào mast.
2. Điều trị mày đay hậu COVID-19 thế nào cho phù hợp?
Cần lưu ý, mày đay được đề cập trong bài viết này là một triệu chứng thường gặp phải trong và sau giai đoạn mắc COVID-19. Do đó, điều trị COVID-19 vẫn là nền tảng và bệnh nhân cần tuân thủ để mau chóng khỏi bệnh.
Theo thông tin từ Viện Da liễu Hoa Kỳ, mày đay ở bệnh nhân COVID-19 có thể kéo dài từ 2 đến 12 ngày. Trung bình, hầu hết mọi người bị trong 8 ngày. Tuy nhiên, ảnh hưởng đến các ngón chân có thể kéo dài từ 10 đến 14 ngày. Nếu quá thời gian trên, bệnh nhân có thể tham khảo một số điều trị đặc hiệu dưới đây.
2.1. Điều trị không dùng thuốc
- Dừng tất cả các loại thuốc hoặc thực phẩm nghi ngờ gây dị ứng.
- Hạn chế gãi, chà xát mạnh trên da.
- Có thể áp lạnh hoặc tắm lạnh, tránh tắm nóng.
- Tránh ánh sáng mặt trời trực tiếp.
- Tẩy giun sán, chống táo bón.
- Mặc quần áo cotton nhẹ nhàng, vừa vặn.
- Tránh các hoạt động nặng nhọc hoặc các nguyên nhân gây ra mồ hôi.
- Cố gắng nghỉ ngơi và giảm các stress.
Nên hạn chế gãi, chà xát mạnh trên da.
3.2. Điều trị với thuốc
+ Nhóm thuốc kháng histamine
Nhóm kháng histamin chia hai thế hệ:
Thế hệ thứ nhất (diphenhydramine, chlorpheniramine, hydroxyzine)
Thế hệ thứ hai mới hơn (cetirizine, loratadine, fexofenadine)
Các thuốc thế hệ thứ hai được ưu tiên cho cả người lớn và trẻ em vì có ít tác dụng phụ và yêu cầu dùng liều thấp hơn so với các thuốc thế hệ đầu tiên. Điều trị bằng thuốc kháng histamine H1 giúp giảm sưng và giảm ngứa.
- Cetirizine có tác dụng nhanh và làm ổn định hoạt động của tế bào mast. Thuốc cũng gây an thần nhẹ khi dùng liều tương đối. Loại này có sẵn cả đường tiêm và uống với liều lượng như nhau cho cả hai đường dùng. Đường tiêm thích hợp cho người lớn và trẻ em từ 12 tuổi trở lên. Với trẻ nhỏ cần dùng đúng liều lượng quy định. Lưu ý khi dùng liều duy trì cho bệnh nhân suy thận hoặc suy gan.
- Levocetirizine là một chất đồng vị có hoạt tính như cetirizine nhưng chỉ cần dùng liều ít hơn (khoảng một nửa). Tuy nhiên, levocetirizine không có khả năng thay thế cho những bệnh nhân không đáp ứng với cetirizine. Thuốc có tác dụng phụ là an thần tương tự như các thuốc kháng histamine thế hệ thứ hai khác. Cần giảm liều ở người suy thận.
- Loratadine là thuốc kháng histamine H1 có chọn lọc và tác dụng kéo dài. Đối với bệnh nhân suy thận hoặc suy gan, nên dùng cách một ngày uống một ngày.
- Fexofenadine được dùng điều trị mày đay ở người lớn và trẻ em trên 6 tuổi.
Tác dụng phụ thường gặp là đau đầu, buồn nôn, chóng mặt. Tốt hơn là không uống thuốc cùng bữa ăn và đặc biệt là không dùng chung với nước hoa quả.
+ Nhóm glucocorticoid (như prednisolone) tuy không ức chế sự phóng thích của các tế bào mast nhưng lại ngăn cản các hoạt động của các phản ứng viêm. Thuốc có rất nhiều tác dụng phụ nên chỉ dùng trong điều trị mày đay cấp, nặng hoặc một số trường hợp mày đay do viêm mạch, do áp ực không đáp ứng với các thuốc kháng histamin thông thường. Không nên dùng để điều trị mày đay mạn tính tự phát.
3. Lời khuyên của thầy thuốc
- Không được tự ý sử dụng thuốc khi chưa được sự hướng dẫn của bác sĩ.
- Khi bệnh nhân COVID-19 xuất hiện mày đay thì cần phải đồng thời theo dõi các triệu chứng khác. Nếu mày đay xuất hiện đột ngột và lan rộng hoặc xảy ra đồng thời với sốt, đau đớn, phồng rộp, các dấu hiệu của nhiễm trùng như sưng, nóng chảy mủ, các dấu hiệu suy hô hấp như thở nhanh, khó thở, SpO2 giảm < 94% cần nhập viện theo dõi.
- Ngưng thuốc ngay và liên hệ với bác sĩ khi gặp phải các tác dụng phụ nghiêm trọng như sưng mặt, môi, lưỡi hoặc thấy khó thở, khó nuốt, nhịp tim nhanh bất thường, chóng mặt dữ dội.