hôm nay Tổng ca nhiễm Ca tử vong
COVID-19 là một bệnh về đường hô hấp, đó là lý do tại sao nó phá vỡ các chức năng bình thường của hệ hô hấp và có thể gây ra mức oxy trong máu thấp. Khi nồng độ oxy trong cơ thể cạn kiệt do nhiễm corona virus, các tế bào trong cơ thể không nhận đủ oxy để thực hiện các chức năng bình thường. Do nồng độ oxy tiếp tục duy trì ở mức thấp, các bộ phận và cơ quan khác nhau của cơ thể bắt đầu suy yếu. Đây là lý do tại sao COVID-19 có thể gây tử vong nếu không được điều trị kịp thời.
Các mức độ oxy khi nhiễm COVID-19
Trong một thông cáo báo chí của Cục Thông tin Báo chí (PIB), Giám đốc Y tế của Viện Lao Quốc gia, Bangalore, Tiến sĩ Ravichandra cho rằng: “80% trường hợp mắc COVID-19 được phát hiện khi bệnh còn nhẹ. Những bệnh nhân này có mức bão hòa oxy vẫn dao động ở mức cao hơn 94%. Chỉ có 15% bệnh nhân COVID-19 có mức độ bão hòa oxy thấp hơn 94%, những trường hợp này cần điều trị và theo dõi y tế thường xuyên.”
Ông cho biết thêm, 5% người nhiễm COVID-19 còn lại phát hiện khi bệnh đã vào giai đoạn nặng với tốc độ hô hấp cao hơn 30 lần/phút và mức độ bão hòa oxy dưới 90%.
Tiến sĩ Ravichandra yêu cầu cảnh giác với các triệu chứng của mức oxy thấp và cho biết các dấu hiệu này bao gồm khó thở, lú lẫn, mê mệt và môi hoặc mặt tái xanh. Bên cạnh đó, các triệu chứng còn bao gồm tức ngực không thuyên giảm, trẻ em cảm thấy lỗ mũi phập phồng, khó thở và kém ăn.
Gần như tất cả bệnh nhân bị giảm oxy máu và thở gấp đều cần bổ sung oxy, kết hợp với glucocorticoid làm giảm viêm có thể điều trị hiệu quả các trường hợp cấp tính do COVID-19.
Bên cạnh đó, Nona Sotoodehnia, tiến sĩ chuyên ngành tim mạch của Đại học Y khoa Washington cho biết: "Chúng tôi cung cấp oxy bổ sung cho bệnh nhân để duy trì độ bão hòa oxy trong máu từ 92% đến 96%. Điều quan trọng cần lưu ý là chỉ những bệnh nhân được bổ sung đầy đủ oxy mới có hiệu quả khi được điều trị bởi glucocorticoid. Trung bình những bệnh nhân giảm oxy máu có độ bão hòa oxy là 91% khi họ vào bệnh viện. Những người có nồng độ oxy quá thấp, dưới 90% sẽ khó có thể thực hiện các biện pháp cứu sống”.
Sotoodehnia khuyến cáo những người có kết quả xét nghiệm dương tính với COVID-19, đặc biệt là những người có nguy cơ bị bệnh nặng cao hơn do tuổi cao hoặc béo phì, nên mua hoặc mượn máy đo oxy xung và theo dõi lượng oxy trong máu thường xuyên.
Làm gì khi đối mặt với mức oxy thấp?
Sử dụng liệu pháp oxy:
Các chuyên gia y tế cho rằng, liệu pháp oxy chỉ có thể được thực hiện khi được khuyến cáo từ bác sĩ. Tuy nhiên, mọi người có thể sử dụng chúng trong trường hợp khẩn cấp, khi đang được chăm sóc y tế hoặc trong khi chờ xe cấp cứu. Liệu pháp oxy được khuyến cáo dùng trong những trường hợp nồng độ oxy trong máu giảm xuống dưới 94%.
Giáo sư Sanyogita Naik, kiêm Trưởng khoa Gây mê hồi sức, Trường Cao đẳng Y tế BJ (Pune, Ấn Độ), cho rằng: “Máy tạo oxy chỉ có thể được sử dụng trong các trường hợp vừa phải của COVID-19, khi bệnh nhân bị giảm nồng độ oxy mà nhu cầu oxy là tối đa là 5 lít mỗi phút.”
Giáo sư nói thêm rằng, máy tạo oxy cũng rất hữu ích cho những bệnh nhân gặp phải các biến chứng sau COVID-19 cần điều trị bằng oxy.
Trong cả hai trường hợp trên, mục tiêu của liệu pháp oxy là đạt được mức bão hòa 94%. Khi bệnh nhân có mức oxy từ 93% đến 94%, liệu pháp oxy có thể được ngừng. Quá nhiều oxy có thể dẫn đến tăng mức độ carbon dioxide, dẫn đến các biến chứng không mong muốn.
Kỹ thuật ECMO:
Khi bệnh nhân COVID-19 bị bệnh đến mức máy thở không thể duy trì được sự sống, các bác sĩ có một lựa chọn cuối cùng là ECMO. Đây được gọi là phương pháp oxy hóa màng ngoài cơ thể, hỗ trợ tim và phổi cho bệnh nhân, khi tim không còn khả năng bơm máu đầy đủ đi khắp bộ phận.
Máu được bơm ra khỏi cơ thể qua một ống thông được đưa vào tĩnh mạch chính và đi qua một ống màng được bao quanh bởi khí oxy đang chảy để trở thành oxy, trước khi được đưa trở lại cơ thể bằng ống thông vào động mạch chính hoặc tĩnh mạch.
ECMO được coi là liệu pháp cuối cùng của những bệnh nhân COVID-19. Trong 1 nghiên cứu tổng hợp lớn được xuất bản năm 2020 bởi Schmidt et al, kết quả của 492 bệnh nhân được điều trị tại một số đơn vị chăm sóc đặc biệt cho thấy tình hình khả quan của liệu pháp này. Xác suất tử vong ước tính khoảng 31% trong 60 ngày sau khi bắt đầu điều trị ECMO. ECMO chỉ được xem xét trong trường hợp bệnh nhân có xác suất tử vong rất cao, ở mức 80% trở lên, do đó, kết quả 31% được cho là đầy hứa hẹn.
Tuy nhiên, việc điều trị ECMO còn gặp nhiều khó khăn vì đòi hỏi trình độ đào tạo và chuyên môn cao về nhân sự cũng như trang thiết bị và cơ sở vật chất liên quan. Bên cạnh đó, nghiên cứu cho thấy ECMO cũng có thể ảnh hưởng đến sinh lý bình thường và làm trầm trọng thêm các vấn đề đông máu và miễn dịch ở bệnh nhân COVID-19 mặc dù có hiệu quả điều trị tốt.