Nhiều cha mẹ tin rằng, trẻ sở hữu đôi mắt to là một trong những biểu hiện của sự thông minh. Vì vậy, nhiều bậc phụ huynh chỉ mong sao con mình sở hữu đôi mắt ấy từ khi mới sinh. Thế nhưng, nhiều em bé vừa chào đời đôi mắt lại hơi mất cân đối, trông như mắt lé, mắt lác.
Tuy nhiên, theo các bác sĩ khoa Nhi, cha mẹ đừng lo lắng, vì mắt của trẻ sơ sinh rồi sẽ thay đổi theo thời gian.
Dưới đây là những thông tin hữu ích giúp cha mẹ hiểu hơn về tình trạng mắt lác ở trẻ sơ sinh.
Tại sao hầu hết trẻ sơ sinh đều lác mắt?
Hiện tượng mắt lác ở trẻ sơ sinh không phải là hiếm gặp, nếu để ý cha mẹ sẽ thấy mắt bé lệch lệch trong khoảng vài tháng đầu đời, từ tháng thứ tư đến tháng thứ sáu sẽ cải thiện dần, hai mắt bé dần dần nhìn thẳng lại.
Như các đặc điểm khác trên cơ thể khi mới chào đời như ít tóc, toàn thân nhăn nheo,... lác mắt chẳng qua đến từ việc trẻ ở trong bụng quá lâu nên bị sưng tấy. Mặt khác, cũng có thể thân hình bé khá tròn trịa, mũm mĩm khiến đôi mắt “híp” lại. Nhưng cha mẹ đừng lo, bởi những đặc điểm này sẽ thay đổi theo quá trình phát triển của con.
Tuy nhiên, nếu qua sáu tháng mà mắt bé vẫn "đi lang thang lệch nhau" kèm theo biểu hiện phải nghiêng đầu hay nheo mắt để nhìn đồ vật xung quanh thì có thể là bé bị các tật về mắt. Lúc này, cha mẹ nên đưa bé đến gặp bác sĩ để thăm khám.
Trẻ mắt lác hay một mí, mí không rõ là tình trạng thường thấy ở trẻ sơ sinh.
3 yếu tố để nhận biết trẻ sở hữu mắt to hay mắc lác
Thông thường, tình trạng mắt lác sẽ khỏi sau một tuần, da ngày càng tốt hơn, em bé trông ngày một dễ thương. Để đánh giá bé có sở hữu mắt to hay mắt lác, mẹ có thể căn cứ vào 3 yếu tố sau đây:
Trẻ có sở hữu đôi mắt hai mí hay không
Mắt hai mí thường là những đôi mắt to tròn, theo thời gian, các đường nét trên khuôn mặt của bé sẽ trở nên rõ ràng hơn, lúc này mẹ có thể nhận biết bé có mắt hai mí hay không. Nếu có thì có nghĩa là con bạn đang sở hữu đôi mắt tuyệt đẹp và điều này sẽ được biểu hiện rõ hơn khi trẻ lớn lên.
Đồng thời, nếu cha mẹ có mắt hai mí nhưng hiện tại con chưa có, đừng nóng vội và hãy quan sát một thời gian, vì mắt hai mí là đặc điểm di truyền trội, vậy nên khả năng bé giống cha mẹ là rất cao.
Kích thước mí mắt của trẻ
Cha mẹ cần quan sát kích thước mí mắt của trẻ, nhìn chung trẻ có đôi mắt to sẽ có mí dài hơn, và ngược lại.
Khi trẻ phát triển đến khoảng tám tuổi, trẻ cơ bản hoàn thiện quá trình đóng mở của mí mắt và đó sẽ là kích thước thật sự của mắt trẻ sau này.
Tình trạng mắt lác ở trẻ sẽ được cải thiện theo thời gian khi bé lớn lên, vậy nên cha mẹ không nên quá lo lắng.
Tỉ lệ giữa đôi mắt của bé so với tổng thể các đường nét trên khuôn mặt
Cuối cùng, việc mắt to hoặc mắt lác còn phụ thuộc vào tỷ lệ đôi mắt của bé so với tổng thể các đường nét trên khuôn mặt.
Một số trẻ có khuôn mặt rộng hơn, dù mắt có to cỡ nào thì trông chúng cũng không to lắm. Ngược lại, một số bé có khuôn mặt nhỏ thì đôi mắt không quá lớn nhưng lại to tròn, phù hợp với gương mặt.
Bác sĩ Lê Hồng Thiện.
Trẻ sơ sinh bị mắt lác có nguy hiểm không?
Lác mắt là tình trạng mắt bị lệch do sự phối hợp không đồng bộ của hai mắt. Lác mắt xảy ra ở khoảng 2 đến 4 phần trăm dân số. Trong đó lác mắt ở trẻ sơ sinh diễn ra không quá phổ biến nhưng vẫn khiến không ít ông bố, bà mẹ cảm thấy lo lắng.
Trên thực tế, khi mới sinh ra, rất nhiều em nhỏ có dấu hiệu như bị lác do hai mắt phối hợp kém. Theo thời gian, lác mắt ở trẻ sơ sinh sẽ hết và không còn đáng lo ngại.
Nguyên nhân gây mắt lác ở trẻ sơ sinh
Trước tiên, chúng ta cần biết có sáu cơ ngoại nhãn cho mỗi mắt (hình): 4 cơ thẳng (cơ thẳng trên, cơ thẳng dưới, cơ thẳng trong, và cơ thẳng ngoài) và 2 cơ chéo (cơ chéo lớn và cơ chéo bé). Cơ chéo lớn do dây thần kinh số IV điều khiển, cơ thẳng ngoài do dây thần kinh số VI điều khiển. Tất cả các cơ còn lại là do dây thần kinh số III điều khiển. Tất cả các nhân thần kinh vận nhãn đều nằm ở sàn não thất IV thuộc thân não.
Hai mắt của bé hoạt động nhịp nhàng, thông qua sự chi phối của các dây thần kinh và các cơ chéo bám vào nhãn cầu. Vì một lý do nào đó, sự phối hợp này bị trục trặc. Khi ấy, mắt bé không cùng nhìn về một hướng nên xuất hiện dấu hiệu bị lác .
Thứ hai chúng ta cần tìm hiểu xem những trẻ nào sẽ dễ bị lác hơn, đó là những trẻ có 1 hoặc nhiều những yếu tố nguy cơ sau:
- Tiền sử gia đình bị lác.
- Sinh non hoặc nhẹ cân.
- Các tình trạng dẫn đến lác bao gồm giảm thị lực (ví dụ: bệnh võng mạc do sinh non, sẹo giác mạc, đục thủy tinh thể, xuất huyết thủy tinh thể lâu dài), viễn thị, dị hướng, giảm thị lực và suy giảm sự kết hợp hai mắt Lác mắt thậm chí có thể là một dấu hiệu biểu hiện của u nguyên bào võng mạc, một bệnh lý ác tính.
- Một số tình trạng thần kinh cơ (ví dụ: bại não, loạn dưỡng cơ).
Ở trẻ sơ sinh, mắt lác thực sự phải được phân biệt với lác giả hay còn gọi là tình trạng mắt không ổn định ở trẻ sơ sinh. Sự bất ổn định của mắt ở trẻ sơ sinh là do phối hợp của hệ thống thần kinh vận nhãn chưa đồng bộ, xảy ra trong vài tháng đầu đời ở một vài trẻ sơ sinh và biến mất khi trẻ lớn.
Lác đồng tiền: Trong đó Pseudoesotropia là dạng phổ biến nhất của bệnh lác đồng tiền. Đó là biểu hiện giả của việc bắt chéo mắt thường xảy ra nhất ở trẻ sơ sinh và trẻ em có sống mũi rộng, hoặc nếp gấp thượng đòn lớn trong vài năm đầu đời.
Đây không phải là lác thực sự mà là ảo ảnh quang học trong đó sống mũi rộng hoặc nếp gấp thượng bì che phủ củng mạc mũi, làm cho mắt có vẻ lệch hướng, đặc biệt khi trẻ nhìn nghiêng (hình ảnh). Sự liên kết bình thường của mắt được thể hiện qua phản xạ ánh sáng của giác mạc và kiểm tra độ che phủ, độ mở của mắt. Việc sử dụng sơ đồ khi thăm khám có thể giúp giải thích khái niệm về bệnh giúp ba mẹ an tâm hơn.
Các Bác sĩ Nhi khoa có thể phát hiện bệnh lác mắt bằng một số xét nghiệm lâm sàng đơn giản. Điều quan trọng nhất là phát hiện các sai lệch biểu hiện vì chúng có khả năng gây giảm thị lực lớn hơn, giảm thị lực chức năng của mắt do không sử dụng hoặc sử dụng sai cách trong giai đoạn phát triển thị giác quan trọng. Những sai lệch tiềm ẩn hiếm khi liên quan đến giảm thị lực.
Ngoài ra, điều quan trọng là phải loại trừ các nguyên nhân gây lác có thể đe dọa tính mạng (ví dụ: u nguyên bào võng mạc).
Bệnh sử: Khi đánh giá một đứa trẻ bị lệch mắt, bệnh sử tập trung vào việc xác định đặc điểm của các triệu chứng và xác định nguyên nhân cơ bản.
Chúng ta cần đặt ra một số câu hỏi:
- Triệu chứng là gì?
- Có tiền sử gia đình bị lác không?
- Sự sai lệch đã xuất hiện ngay từ khi còn nhỏ chưa?
- Có tiền sử chấn thương đầu hoặc mắt không?
- Có bất kỳ vấn đề y tế nào khác không (ví dụ: rối loạn thần kinh cơ hoặc di truyền)?
- Có tiền sử tiếp xúc với chất độc hoặc thuốc không?
- Khoảng thời gian phát hiện bệnh và mức độ nghiêm trọng của bệnh là gì?
- Khi nào thì lác xuất hiện? (ví dụ: liên tục hay gián đoạn? kèm theo mệt mỏi? chỉ ở một số vị trí nhìn nhất định)?
- Có các triệu chứng khác không (nhức đầu, tư thế đầu bất thường, nhìn đôi, nhược sắc, mỏi mắt)?
- Trẻ có phàn nàn về chứng nhìn đôi hoặc có biểu hiện như có thể có song thị (nhắm một mắt, đánh giá sai vật thể, v.v.) không?
Khám sức khỏe nên bao gồm đánh giá sức khỏe tổng quát và tình trạng thần kinh, bao gồm cả đánh giá về sự phát triển. Cần lưu ý sự hiện diện của tư thế đầu bất thường (ví dụ: nghiêng hoặc quay). Sự hiện diện của tư thế đầu bất thường gợi ý đến chứng lác trong, hạn chế hoặc lác trong.
Việc kiểm tra nhãn khoa của nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe chính nên bao gồm đánh giá chức năng thị giác, phản ứng đồng tử, vị trí mí mắt và các chuyển động ngoài thị giác cũng như kiểm tra phản xạ ánh sáng giác mạc, kiểm tra độ che phủ và kiểm tra độ che phủ / độ mở của mắt.
Dấu hiệu mắt lác ở trẻ sơ sinh là gì?
Cha mẹ nên phát hiện dấu hiệu lác mắt và đưa bé đi khám sớm. Chữa trị càng sớm thì bé càng có cơ hội khỏi bệnh. Nếu chữa lác trước 3 tuổi, tỷ lệ thành công lên tới 92%, 6-8 tuổi là 62%. Nếu để lâu, mắt bé sẽ thành tật nên khả năng phục hồi sẽ kém.
Khi thấy một số dấu hiệu sau, cha mẹ nên đưa bé đi khám sớm:
- Bé thường nhìn lệch, nhìn nghiêng hoặc quay đầu mới nhìn thấy đồ vật ở bên cạnh, ở một số bé nếu tình trạng kéo dài trẻ sẽ thường vẹo cổ.
- Mắt bé không có phản ứng với ánh sáng hoặc không tập trung vào một món đồ chơi.
- Bé có thể xuất hiện tình trạng lác một bên mắt từ lúc mới sinh hoặc trong giai đoạn 1-2 tuổi (hay muộn hơn). ở một số bé, triệu chứng quấy khóc, bú kém cũng thường gặp.
Trẻ sơ sinh bị mắt lác điều trị như thế nào?
Các biến chứng của bệnh bao gồm:
- Nhược thị (xảy ra ở một nửa số trẻ nhỏ bị lác).
- Cận thị (trong lác mắc phải ở bệnh nhân thường ≥9 tuổi).
- Co cứng thứ phát các cơ ngoại nhãn, hạn chế vận động ngoại nhãn và trường thị giác hai mắt; co cứng thứ phát có thể phát triển trong vài tuần đến vài tháng nếu lác có liên quan đến sở thích cố định cho một mắt không được điều trị.
- Hậu quả bất lợi về tâm lý xã hội và nghề nghiệp
Việc điều trị lác phụ thuộc vào căn nguyên. Cải thiện sự liên kết của hai mắt và độ chụm hai mắt (bao gồm cả chứng lập thể) là những mục tiêu của liệu pháp . Một thử nghiệm về can thiệp không phẫu thuật có thể trước liệu pháp phẫu thuật trong một số trường hợp.
Trẻ suy giảm thị lực: Việc xử trí ban đầu của bệnh lác nhằm giải quyết tình trạng suy giảm thị lực do nhược thị. Liệu pháp điều trị có thể bao gồm điều chỉnh tật khúc xạ bằng cách kê kính hoặc kính áp tròng và / hoặc liệu pháp điều trị tắc hoặc điều trị bằng dược lý hoặc quang học đối với mắt được ưu tiên. Ngoài ra, các thủ tục phẫu thuật có thể cần thiết để điều chỉnh các tình trạng cản trở trục thị giác (ví dụ: đục thủy tinh thể, u máu).
Điều chỉnh: Các chiến lược quản lý lác bao gồm quan sát theo dõi thường xuyên hoặc các phương pháp y tế và phẫu thuật. Việc quan sát với sự theo dõi thường xuyên của bác sĩ nhãn khoa là thích hợp đối với trẻ em có độ lệch nhỏ (tức là <5 đến 6 độ), không liên tục và được kiểm soát vừa phải hoặc tốt, và trẻ có thể bị hợp nhất hoặc rối loạn lập thể.
Cả can thiệp phẫu thuật và không phẫu thuật đều được sử dụng để điều chỉnh sự liên kết của mắt: Các liệu pháp phi phẫu thuật bao gồm việc kê đơn kính đeo hoặc kính áp tròng, thuốc nhỏ mắt trị liệu lăng kính để điều chỉnh chỗ ở, liệu pháp tắc và các bài tập huấn luyện thị giác (chỉnh hình).
Theo nguyên tắc chung, việc hồi phục sau phẫu thuật lác là nhanh chóng và hiếm khi xảy ra các biến chứng nghiêm trọng. Buồn nôn và nôn không phải là hiếm vào ngày đầu tiên sau phẫu thuật và đôi khi cần điều trị bằng thuốc chống nôn. Đau thường nhẹ và có thể được kiểm soát bằng acetaminophen hoặc ibuprofen. Chảy một lượng nhỏ nhuốm máu từ (các) mắt được phẫu thuật trong 48 đến 72 giờ đầu tiên là bình thường.
Xuất huyết dưới kết mạc sau phẫu thuật và tiêm thuốc kết mạc thường hết sau hai đến ba tuần sau phẫu thuật. Song thị tạm thời không phải là hiếm nhưng thường tự khỏi sau vài ngày. Ít phổ biến hơn, viêm kết mạc do vi khuẩn có thể xảy ra sau phẫu thuật; nó thường nhẹ và dễ dàng khỏi khi dùng thuốc kháng sinh tại chỗ.
Các trường hợp nhiễm trùng sau phẫu thuật nghiêm trọng hơn, viêm mô tế bào trước vách ngăn và viêm nội nhãn, hiếm gặp. Các dấu hiệu cảnh báo của nhiễm trùng bao gồm nhiễm trùng rõ rệt và tiêm vào kết mạc và mi mắt, giảm thị lực, chảy mủ và đôi khi đau. Trẻ em có những phát hiện này nên được bác sĩ nhãn khoa khám khẩn cấp.